Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh là hành vi vi phạm nghiêm trọng đạo lý, kỷ luật quân đội và quy định pháp luật, thể hiện sự thiếu trách nhiệm đối với đồng đội bị thương hoặc đã hy sinh. Hành vi này không chỉ gây hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, nhân phẩm của quân nhân mà còn làm suy giảm tinh thần chiến đấu và truyền thống tốt đẹp của quân đội nhân dân Việt Nam.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh:
- 2 2. Cấu thành Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 417 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội hành hung đồng đội:
1. Khái quát về Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh:
1.1. Khái niệm:
Thương binh là những người thuộc lực lượng vũ trang, bao gồm quân nhân, công an nhân dân, do chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh chống tội phạm, dũng cảm làm nhiệm vụ đặc biệt khó khăn, nguy hiểm, vì lợi ích của Nhà nước, của nhân dân hoặc làm nghĩa vụ quốc tế… mà bị suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên, được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp “Giấy chứng nhận thương binh” và “Huy hiệu thương binh” thuộc một trong các trường hợp:
- Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu;
- Bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh, để lại thương tích thực thể; làm nghĩa vụ quốc tế;
- Đấu tranh chống tội phạm;
- Dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh;
- Dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân; làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.
”Tử sĩ” là những người hoạt động thoát ly trong các tổ chức biên chế Nhà nước như: Quân nhân thuộc các đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, thương bệnh binh trong các trại thương binh, cán bộ, công nhân viên trong các cơ quan, công trường, xí nghiệp Nhà nước, trong khi làm nhiệm vụ bị chết vì địch giết, vì ốm đau tai nạn.
”Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, xâm phạm chính sách thương binh, tử sĩ của Nhà nước ta bằng hành vi cố ý bỏ thương binh, tử sĩ tại trận địa hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh dẫn đến không tìm thấy thương binh, tử sỹ hoặc thương binh bị chết.”
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất: Quy định về Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh thể hiện rõ nét truyền thống nhân đạo, “uống nước nhớ nguồn” và “hiếu nghĩa đồng đội” của dân tộc Việt Nam. Việc bảo vệ, chăm sóc những người đã hy sinh hoặc bị thương trong chiến đấu không chỉ là trách nhiệm pháp lý mà còn là nghĩa vụ đạo đức thiêng liêng, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị nhân văn sâu sắc trong xã hội và trong quân đội.
- Thứ hai: Việc xử lý nghiêm khắc những hành vi bỏ mặc thương binh, tử sĩ có ý nghĩa đặc biệt trong việc tăng cường kỷ luật quân đội và giữ vững tinh thần đoàn kết, gắn bó giữa các chiến sĩ. Mỗi quân nhân đều phải ý thức rõ rằng sự an toàn và tính mạng của đồng đội là ưu tiên hàng đầu; từ đó hình thành trách nhiệm và lòng trung thành với tổ chức, với đồng đội trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
- Thứ ba: Quy định tội danh này trong Bộ luật Hình sự năm 2015 là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền được chăm sóc, cứu chữa của thương binh và bảo đảm việc xử lý tử sĩ một cách đúng mực, đầy đủ. Điều đó cũng thể hiện sự ghi nhận của Nhà nước đối với công lao của người lính; đồng thời giúp bảo vệ danh dự và quyền lợi của thân nhân những người đã hy sinh cho Tổ quốc.
- Thứ tư: Hình phạt nghiêm minh đối với hành vi cố ý bỏ thương binh, tử sĩ không chỉ có tác dụng trừng trị người phạm tội mà còn mang ý nghĩa răn đe, cảnh tỉnh đối với những người khác trong lực lượng vũ trang. Qua đó góp phần ngăn ngừa những vi phạm tương tự, giữ vững kỷ cương và nâng cao trách nhiệm của từng cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh hiện nay đang được quy định tại Điều 417 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
”1. Người nào có trách nhiệm mà cố ý bỏ thương binh, tử sĩ tại trận địa hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh dẫn đến không tìm thấy thương binh, tử sĩ hoặc thương binh bị chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
b) Đối với 02 thương binh hoặc 02 tử sĩ trở lên.”
2. Cấu thành Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh:
2.1. Khách thể:
Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh xâm phạm đến nghĩa vụ và trách nhiệm của quân nhân, xâm phạm chính sách thương binh, tử sĩ của Nhà nước ta.
2.2. Mặt khách quan:
Mặt khách quan của tội phạm này thể hiện ở hành vi cố ý bỏ thương binh, tử sĩ tại trận địa hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh dẫn đến không tìm thấy thương binh, tử sỹ hoặc thương binh bị chết. Cụ thể:
- Bỏ thương binh, tử sĩ ở trận địa: Là không đưa thương binh, tử sĩ về nơi an toàn hoặc không chôn cất tử sĩ theo quy định;
- Không chăm sóc, cứu thương binh: Là hành vi của người có nghĩa vụ chăm sóc, cứu chữa thương binh và có điều kiện để chăm sóc, cứu chữa mà không chăm sóc, cứu chữa thương binh.
Những hành vi này có thể dẫn đến không tìm thấy thương binh, tử sĩ hoặc khiến thương binh tử vong do không được chăm sóc kịp thời. Ngoài ra, hậu quả tinh thần như tổn thương tâm lý, mất niềm tin của đồng đội, dư luận xã hội cũng là những hệ quả nghiêm trọng.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh được thực hiện với lỗi cố ý.
Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người thuộc nhóm đối tượng quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới có thể thực hiện hành vi phạm tội, cụ thể gồm:
- Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng;
- Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện;
- Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu;
- Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.
Ngoài ra, người phạm tội phải từ đủ 16 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 và Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015.
3. Khung hình phạt của Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh:
Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh theo ĐIều 417 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 417 Bộ luật Hình sự:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh được quy định tại khoản 2 Điều 417 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
- Là chỉ huy hoặc sĩ quan: Đây là tình tiết định khung tăng nặng bởi người phạm tội giữ chức vụ, quyền hạn trong quân đội, có trách nhiệm cao hơn trong việc bảo đảm an toàn cho thương binh, tử sĩ và tổ chức cứu chữa kịp thời. Khi người chỉ huy hoặc sĩ quan cố ý bỏ mặc thương binh, tử sĩ hoặc không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, cứu chữa thì không chỉ vi phạm pháp luật mà còn làm giảm sút tinh thần chiến đấu, phá vỡ kỷ luật quân đội và ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, đạo đức nghề nghiệp của quân nhân. Vì vậy, hành vi phạm tội trong trường hợp này thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn và bị áp dụng hình phạt nặng hơn (từ 3 đến 10 năm tù).
- Đối với 02 thương binh hoặc 02 tử sĩ trở lên: Hành vi phạm tội có ảnh hưởng đến nhiều người là yếu tố định khung tăng nặng bởi nó thể hiện mức độ hậu quả nghiêm trọng hơn so với trường hợp chỉ làm ảnh hưởng đến một người. Trong trường hợp người phạm tội cố ý bỏ mặc hoặc không cứu chữa từ hai thương binh hoặc hai tử sĩ trở lên, hậu quả về thể chất, tinh thần và đạo đức xã hội là đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, pháp luật quy định hình phạt nghiêm khắc hơn để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.
5. Phân biệt với Tội hành hung đồng đội:
Tiêu chí | Tội hành hung đồng đội (Điều 398 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh (Điều 417 Bộ luật Hình sự 2015) |
Chủ thể | Người trong lực lượng vũ trang nhân dân, có quan hệ công tác với nạn nhân là đồng đội. | Người có trách nhiệm trong chăm sóc, cứu chữa thương binh, tử sĩ (thường là quân nhân hoặc cán bộ y tế quân đội). |
Hành vi phạm tội | Cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của đồng đội. | Cố ý bỏ mặc thương binh, tử sĩ tại trận địa hoặc không cứu chữa thương binh. |
Hậu quả cơ bản | Gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe đồng đội. | Dẫn đến việc thương binh bị chết hoặc không tìm thấy thương binh, tử sĩ. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. |
Tính chất hành vi | Hành vi trực tiếp xâm hại đến thân thể, sức khỏe đồng đội (mang tính chủ động tấn công). | Hành vi mang tính thụ động, bỏ mặc trách nhiệm cứu giúp, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. |
THAM KHẢO THÊM: