Trong quá trình thực hiện tội phạm, người phạm tội có thể bị dừng lại bất cứ lúc nào vì những nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân khách quan. Vậy hiếp dâm không thành có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?
Mục lục bài viết
1. Hiếp dâm không thành có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 15 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về tội phạm chưa đạt. Cụ thể như sau:
– Phạm tội chưa đạt là hành vi cố tình thực hiện một tội phạm bất kỳ tuy nhiên không thể thực hiện tội phạm đó đến cùng vì những lý do nằm ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội;
– Phạm tội chưa đạt cũng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt đó.
Theo đó thì có thể nói, chỉ có các loại tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý thì mới có trường hợp phạm tội chưa đạt, điều luật không quy định về hình thức cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp. Tội hiếp dâm hiện nay đang được quy định cụ thể tại Điều 141 của Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên theo điều luật phân tích nêu trên, trong trường hợp hiếp dâm không thành công thì sẽ bị coi là trường hợp phạm tội chưa đạt, tức là trường hợp người phạm tội chưa đạt được mục đích của mình, đối với hành vi hiếp dâm không thành công thì người phạm tội vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm ở giai đoạn “phạm tội chưa đạt”.
2. Hiếp dâm không thành bị truy cứu trách nhiệm hình sự thế nào?
Nhìn chung, trách nhiệm hình sự của tội phạm theo các giai đoạn thực hiện tội phạm rất khác nhau, trách nhiệm hình sự phản ánh tính chất nguy hiểm cho xã hội khác nhau trong các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng thời thể hiện chính sách hình sự của nhà nước, trong khi người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự thì vợ chuẩn bị tội phạm và tội phạm chưa đạt đều có thể bị chi cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, trách nhiệm hình sự của người phạm tội chưa đạt không bị giới hạn trong phạm vi một số tội phạm cụ thể giống như trường hợp chuẩn bị tội phạm. Căn cứ theo quy định tại Điều 15 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về người phạm tội chưa đạt, theo đó thì người phạm tội chưa đạt vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt đó. Về nguyên tắc thì có thể nói, mọi trường hợp phạm tội chưa đạt đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 2015 khi quy định các tội phạm cụ thể thì pháp luật hình sự không có khung hình phạt riêng cho những người phạm tội chưa đạt.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với những người phạm tội chưa đạt nói chung và phạm tội chưa đạt trong tội hiếp dâm nói riêng, đều cần phải tuân thủ theo quy định chung về quyết định hình phạt, căn cứ theo quy định tại Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định, đối với hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt sẽ được quyết định dựa trên các điều luật của pháp luật hình sự về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, tùy theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà người phạm tội đã thực hiện trên thực tế, tùy theo mức độ thực hiện ý định phạm tội của người phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thể thực hiện được đến cùng.
Như vậy, khi quyết định hình phạt đối với những người phạm tội chưa đạt, ngoài các căn cứ quyết định hình phạt được quy định cụ thể trong Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 như:
– Quy định của bộ luật hình sự;
– Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
– Nhân thân của người phạm tội;
– Các tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án còn phải xem xét và cân nhắc về mức độ thực hiện ý định phạm tội, tình tiết khiến cho tội phạm đó không thể được thực hiện đến cùng. Đồng thời, với mức hình phạt đối với những trường hợp phạm tội chưa đạt, cũng căn cứ theo quy định tại Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về mức hình phạt cho trường hợp phạm tội chưa đạt. Theo đó đối với những trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định khung hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì trên thực tế sẽ áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm cho người phạm tội, nếu đó là tù có thời hạn thì mức hình phạt cho người phạm tội sẽ không được phép vượt quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật đã quy định.
Theo đó thì có thể nói, hiếp dâm không đạt sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm căn cứ theo quy định tại Điều 141 của Bộ luật hình sự năm 2015 theo như phân tích nêu trên. Đối với trường hợp hiếp dâm không đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định khung hình phạt cao nhất là tù chung thân thì mức phạt tù được áp dụng đối với người phạm tội trong trường hợp này là không được vượt quá 20 năm, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cũng sẽ không được phép vượt quá 3/4 mức phạt tù mà Điều 141 đã quy định.
3. Hiếp dâm nhưng không biết nạn thân có thai có được xem là tình tiết tăng nặng không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Cụ thể bao gồm:
– Trường hợp phạm tội có tổ chức;
– Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
– Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong quá trình phạm tội;
– Phạm tội có tính chất côn đồ;
– Phạm tội xuất phát từ động cơ đê hèn;
– Cố tình thực hiện phạm tội đến cùng;
– Phạm tội từ hai lần trở lên;
– Thực hiện hành vi tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
– Phạm tội đối với những người được xác định là người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, những người được xác định là người từ đủ 70 tuổi trở lên;
– Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ, những người được xác định là người khuyết tật nặng hoặc tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về khuyết tật, những người bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng làm chủ hành vi, những người lệ thuộc về mặt tinh thần/vật chất/công tác hoặc các mặt khác;
– Có hành vi lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, lợi dụng tình trạng thiên tai, tình trạng khẩn cấp, lợi dụng tình trạng dịch bệnh hoặc những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác để phạm tội;
– Dùng thủ đoạn tinh vi xạo quyệt, tàn ác trong quá trình phạm tội;
– Dùng thủ đoạn và sử dụng các phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người trong quá trình phạm tội;
– Có hành vi sử dụng đối tượng dưới 18 tuổi phạm tội dưới bất kỳ hình thức nào;
– Sử dụng hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm mục đích trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
Theo đó, căn cứ theo điểm i khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, có quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đó là “phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đi 70 tuổi trở lên (trước đây là tình tiết phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già)”. Đối tượng mà tội phạm tác động đến là con người có dấu hiệu đặc biệt như dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên. Do phạm tội đối với các đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt này, xâm phạm nghiêm trọng đên đạo đức xã hội và nguyên tắc nhân đạo trong quan hệ xã hội nên có mức độ nguy hiểm cao hơn so với trường hợp phạm tội đôi với những đôi tượng khác. Theo đó thì có thể nói, pháp luật chỉ quy định hành vi biết phụ nữ mang thai là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, không phân biệt người phạm tội có biết rằng đó là của phụ nữ mang thai hay không bằng tay.
Do đó, kể cả khi người phạm tội hiếp dâm không biết đối tượng phạm tội của mình là phụ nữ mang thai, thì đó cũng bị coi là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017).