Hành vi là những phản ứng, cách xử sự được biểu hiện ra bên ngoài của con người trong những hoàn cảnh nhất định. Mỗi hành vi đều được hình thành trên cơ sở nhận thức và kiểm soát của chủ thể. Những hành vi nào của con người được pháp luật quy định, điều chỉnh thì được xem là hành vi pháp lý.
Mục lục bài viết
1. Hành vi pháp lý là gì?
– Hành vi pháp lý là những cách ứng xử biểu hiện ra bên ngoài của con người trong những tình huống nhất định được pháp lý quy định, điều chỉnh. Hành vi pháp lý luôn gắn liền với các quy định của pháp luật. Trong quy phạm pháp lý luôn có sự xác định một cách rõ ràng những hành vi nào của các chủ thể nào sẽ được coi là hành vi pháp luật. Hành vi pháp lý liên quan đến lĩnh vực và các mối quan hệ mà pháp lý điều chỉnh.
– Hành vi pháp lý có ý nghĩa rất lớn về mặt xã hội nên nó cần được giám sát chặt chẽ từ phía xã hội. Chủ thể hành vi pháp lý phải là những người có khả năng nhận thức, xác lập, kiểm soát được hoạt động của bản thân. Khả năng này do pháp lý quy định phụ thuộc vào độ tuổi và năng lực lý trí của chủ thể. Những người không có khả năng nhận thức hay điều khiển được hoạt động của bản thân thì không được coi là chủ thể hành vi pháp luật. Chẳng hạn, những người mất trí, những người mắc các chứng bệnh về thần kinh… dẫn đến tình trạng không nhận thức hoặc điều khiển được hoạt động của mình; đối với trẻ em đi nữa t do không thể hiểu biết hết những ý nghĩa xã hội của hành vi do mình thực hiện vì thế pháp lýkhông quy định hành vi của họ là hành vi pháp luật. Độ tuổi của chủ thể hành vi pháp lýđược quy định khác nhau trong các lĩnh vực và quan hệ pháp nhau, tuỳ theo tầm quan trọng và tính chất của quan hệ xã hội đó. Chủ thể hành vi pháp lý có thể là cá nhân, nhà chức trách, nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các chủ thể pháp lý khác.
– Hành vi pháp lý có thể thực hiện bằng hành động như thông qua cử chỉ, lời nói… hoặc không hành động nhưng phải được biểu hiện ra bên ngoài hiện thực khách quan, nghĩa là có thể nhìn thấy, nghe thấy, nhận thức được hành động hay không hành động đó. Hình thức biểu hiện cụ thể của hành vi pháp lýtrong một số trường hợp được pháp lýquy định rất chặt chẽ. Chẳng hạn, hành vi mua bán nhà phải được thể hiện bằng văn bản và có xác nhận của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hành vi pháp lý thì có thể hợp pháp hoặc không hợp pháp. Đối với các hành vi pháp lý hợp pháp thì sẽ được nhà nước, xã hội hoan nghênh, khen thưởng, còn đối với các hành vi pháp lý không hợp pháp có thể bị lên án, trừng phạt tuỳ theo tính chất và mức độ nguy hiểm của chúng. Hành vi pháp lý có liên quan chặt chẽ, có ảnh hưởng và tác động lớn tới các hành vi xã hội khác như hành vi đạo đức, hành vi chính trị…, chúng là cơ sở góp phần tạo nên nhân cách mỗi con người.
2. Phân loại hành vi pháp lý:
Hành vi pháp lý rất đa dạng nên có thể phân chia chúng theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau:
– Căn cứ vào sự phù hợp của hành vi với quy định của pháp lý có thể chia hành vi pháp lý thành hành vi hợp pháp và hành vi không hợp pháp. Hành vi hợp pháp là những hành vi được thực hiện phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật. Hành vi không hợp pháp là hành vi được thực hiện trái với những quy định của pháp lý như không làm những việc mà pháp lý yêu cầu, làm những việc mà pháp lý cấm hoặc vượt quá phạm vi cho phép của pháp luật…
– Căn cứ vào phương thức biểu đạt ra bên ngoài hiện thực khách quan có thể chia hành vi pháp lýthành hành vi hành động và hành vi không hành động. Hành vi hành động là hành vi mà chủ thể phải thực hiện bằng những thao tác nhất định, chẳng hạn, hành vi ký hợp đồng, hành vi tham gia giao thông trên đường phố… Hành vi không hành động là hành vi mà chủ thể thực hiện nó bằng cách không tiến hành những thao tác nhất định, chẳng hạn, hành vi không tố giác người phạm tội…
– Căn cứ vào chủ thể thực hiện có thể chia hành vi pháp lý thành hành vi của cá nhân và hoạt động vi phạm pháp lý của tổ chức…
3. Một số nội dung liên quan đến hành vi pháp lý:
3.1 Trách nhiệm pháp lý:
– Trách nhiệm pháp lý là khả năng chịu hậu quả bất lợi( sự trừng phạt) của chủ thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật sẽ phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định.
Cơ sở của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý chỉ xuất hiện khi trong thực tế xảy ra vi phạm pháp luật, là hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật. Nếu trong thực tế không xảy ra vi phạm pháp luật thì cũng không tồn tại trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý chỉ được phép áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Không truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể có hành vi trái pháp luật được thực hiện trong trường hợp: (a) Chủ thể không có năng lực trách nhiệm pháp lý (không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình); (b) Do sự kiện bất ngờ (chủ thể không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra); (c) Do phòng vệ chính đáng; (d) Được thực hiện phù hợp với tình thế cấp thiết…
Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với các quy định pháp luật, trong pháp luật luôn có sự quy định chặt chẽ về chủ thể có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý, về trình tự, thủ tục tiến hành xác định và truy cứu trách nhiệm pháp lý, về các biện pháp cưỡng chế được phép áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật…
* Ý nghĩa của việc quy định về trách nhiệm pháp lý:
Sở dĩ nhà nước quy định trách nhiệm pháp lý, thực hiện sự trừng phạt đối với những chủ thể vi phạm pháp luật là vì những lý do sau:
– Thứ nhất, trong quy phạm pháp luật, nhà nước đã đưa ra trước những cách xử sự có tính khuôn mẫu mà chủ thể được phép hoặc buộc phải lựa chọn khi gặp phải những tình huống mà pháp luật đã liệu. Và chủ thể khi ở vào hoàn cảnh, điều kiện (tình huống) đã được pháp luật dự liệu thì chỉ được phép hoặc buộc phải lựa chọn cho mình cách xử sự phù hợp từ những cách xử sự mà trong quy phạm pháp luật đã dự tính cho trường hợp đó.
– Thứ hai, các chủ thể pháp luật (trong trạng thái bình thường) luôn hoạt động có lý trí (họ ý thức được việc làm của mình, nghĩa là, họ có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình và hậu quả do nó gây ra cho xã hội) và có tự do ý chí (họ có khả năng và điều kiện để có thể tự lựa chọn cho mình cách xử sự có thể có trong hoàn cảnh, điều kiện nhất định). Vì vậy, họ có đủ khả năng và phải chịu trách nhiệm về cách xử sự (hành vi) đã lựa chọn của mình. Nếu chủ thể chọn cách xử sự trái với ý chí của nhà nước đã thể hiện trong quy phạm pháp luật (không lựa chọn cách xử sự mà nhà nước cho phép hoặc buộc phải thực hiện trong trường hợp đó) thì chủ thể phải chịu trách nhiệm việc làm của mình, phải chịu trách nhiệm pháp lý. Như vậy, trách nhiệm pháp lý chỉ đặt ra đối với những chủ thể có lý trí và tự do ý chí.
3.2 Phân loại trách nhiệm pháp lý:
Trách nhiệm pháp lý có nhiều loại, thông thường chúng được chia thành: Trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm vật chất:
– Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất do toà án áp dụng đối với những chủ thể có hành vi phạm tội.
– Trách nhiệm hành chính là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể vi phạm hành chính.
– Trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do toà án hoặc các chủ thể khác được phép áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật dân sự.
– Trách nhiệm kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan, xí nghiệp, trường học… áp dụng đối với cán bộ, công chức, nhân viên, sinh viên… của cơ quan, xí nghiệp, trường học… của mình khi họ vi phạm pháp luật.
– Trách nhiệm vật chất là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan, xí nghiệp… áp dụng đối với cán bộ, công chức, công nhân… của cơ quan, xí nghiệp trong trường hợp họ gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan, xí nghiệp.
Để bảo đảm sự công bằng và tính hiệu quả trong việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với mỗi trường hợp vi phạm pháp luật cụ thể có thể áp dụng một hoặc đồng thời nhiều loại trách nhiệm pháp lý.