Hành vi đánh nhau bị xử phạt như thế nào? Một bên đánh trước bên kia phòng vệ đánh lại thì bị xử phạt như thế nào?
Tóm tắt câu hỏi:
Em xin được tư vẫn về sự việc của em như sau: Hôm trước rất đông người đi uống bia ai cũng say nên cãi nhau to tiếng rồi họ nhảy vào đánh nhau. Xong rồi xin lỗi nhau xong rồi ai cũng về nhà họ về trước rồi họ gọi 2 anh em họ ra chặn đường đánh 3 anh em bọn cháu. Lúc đó 3 anh em bọn cháu bắt buộc phải tự vệ nên đánh nhau với họ rồi họ có 1 người bị chảy máu mũi. Rồi sau đó có người can rồi chúng cháu cũng về nhà hết. Cho cháu xin hỏi các cháu có bị xử phạt không ạ?
Luật sư tư vấn:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình có quy định người nào đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau thì sẽ bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng.
Ngoài ra, tại Điều 104 “Bộ luật hình sự năm 2015” quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác như sau:
Luật sư
“Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân”.
Căn cứ vào quy định này, nếu như bạn cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
+ Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
+ Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
+ Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
+ Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
+ Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
+ Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
Tại Điều 15 “Bộ luật hình sự năm 2015” quy định về hành vi phòng vệ chính đáng như sau:
“Điều 15. Phòng vệ chính đáng
1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Căn cư vào quy định thì trong trường hợp của không thể gọi là phòng vệ chính đáng được. Trường hợp của bạn, bạn có quyền lựa chọn cách là bỏ chạy, không cần thiết chống trả lại.
Như vậy, trường hợp của bạn có thể bị xử phạt hành chính với hành vi đánh nhau. Nếu như cố ý gây thương tích tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 104 “Bộ luật hình sự năm 2015”.
Mục lục bài viết
1. Hành vi đánh nhau và trách nhiệm của người vi phạm
Hành vi đánh nhau tùy thuộc vào mức độ và tính chất sẽ có mức độ xử phạt khác nhau. Cụ thể sẽ có 2 hình thức xử phạt: Hành chính và hình sự.
1. Truy cứu trách nhiệm hình sự
Điều 104 Bộ luật Hình sự quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.”
2. Xử phạt hành chính
Đối với những hành vi đánh nhau nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xử phạt hành chính. Theo quy định tại Điều 7 Nghị định 73/2010/NĐ –CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự và an toàn công cộng với mức xử phạt từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng về hành vi: Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau mà chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Đánh nhau có bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Tóm tắt câu hỏi:
Chào luật sư! Luật sư cho tôi hỏi. Em trai tôi với 3 người nữa đi uống rượu về, người kia đi xe lạng lách nên người chở em tôi đuổi theo ép xe lại. Em tôi với 1 người nữa đánh họ. Xong kêu họ chở về, họ chở em tôi về khi về đi qua nhà tôi họ sợ bị đánh nên dừng xe lại. Trả khóa xe rồi bỏ chạy kêu cứu nên em tôi bị bắt còn 3 người kia bỏ đi. Em trai tôi và người bị hại khai nên đã được công an xã cho về. Còn 3 người kia thì công an xã tới tìm rồi thách thức đòi đập nên công an huyện phải làm việc. Em tôi với người kia bị giam 4 ngày trên huyện. Không biết sao em tôi có bị ép cung mà nhận tội. Còn người kia được thả về. Luật sư cho tôi hỏi em tôi phạm tội gì và 3 người kia có tội không. Có phải đi tù không?
Luât sư tư vấn:
Theo quy định tại Điều 14, Bộ luật hình sự 2009:
“Người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Người say vẫn bị coi là có năng lực trách nhiệm hình sự nếu do họ tự đặt chính mình vào tình trạng say tức là chính họ lựa chọn việc đặt mình vào tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự bị hạn chế hoặc bị loại trừ. Họ là người có lỗi đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trong khi say.
Trường hợp em bạn đi uống rượu về gặp người kia đi xe lạng lách nên người chở em bạn đuổi theo ép xe lại. Em bạn với 1 người nữa đánh họ trong lúc đang say rượu. Ở đây, người bị đánh cần được giám định để xác định xem tỷ lệ thương tật là bao nhiêu?
Điều 104 “Bộ luật hình sự 2015” quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khi nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguyên hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.”
Nếu người bị đánh có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên thì em bạn và người cùng đánh sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu tỷ lệ thương tật dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a) đến điểm k) Khoản 1 Điều 104 “Bộ luật hình sự 2015” thì em bạn và người cùng đánh cũng bị truy cứu trách nhiệm hính sự.
Nếu chưa đến mức độ truy cứu trách nhiệm hình sự, thì em bạn sẽ bị xử lý hành chính theo quy định Điểm a Khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP:
“Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;”
3. Tư vấn giải quyết vụ án đánh nhau
Tóm tắt câu hỏi:
Ngày 25 tháng 05 năm 2016 tôi đi mua sắt vụn tại một cửa hàng, trong lúc tôi đang hốt rác thì chị H xông vào đánh tôi (gia đình tôi có nợ chị H một khoản tiền) để tự vệ tôi giơ cái hót rác lên đỡ không may nó đập trúng trán chị H và bị xước một vệt chảy máu. Sau đó chị H cầm gậy đuổi và đánh tôi 1 cái vào vai và gọi điện cho Công An huyện xuống hốt chiếc xe máy Dream của tôi lên huyện và mời một mình tôi lên giải quyết. Lên Công An huyện các đồng chí ấy nhất định bắt tôi phải kí vào biên bản đã đánh chị H, trong khi họ không mời nhân chứng và chị H lên để giải quyết. Tôi thấy mình không cố ý gây thương tích và chủ động đánh chị H nên tôi không kí vào biên bản. Hiện tại công an huyện vẫn chưa cho tôi lấy xe về. Vậy với trường hợp như của tôi công an huyện đã giải quyết đúng chưa? Chị H chủ động đánh tôi như vậy có vi phạm pháp luật không? Để lấy được xe tôi phải làm như thế nào? Kính mong văn phòng hồi đáp sớm. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Luật sư tư vấn:
Việc cơ quan công an huyện nhất định bắt chị kí vào biên bản đã đánh chị H, trong khi họ không mời nhân chứng và chị H lên để giải quyết là không đúng về trình tự, thủ tục theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2003, trước khi yêu cầu chị ký vào văn bản làm việc thì cơ quan công an phải tiến hành công tác điều tra để xác định sự thật như thế nào theo quy định tại Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự 2003: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.”
Chị H chủ động đánh bạn, nếu gây nên tỷ lệ thương tật thì H có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.”
Nếu không có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự chị H thì chị H sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP:
“Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;”
Để đảm bảo quyền lợi cho bạn, nếu bên phía cơ quan công an cố tình không giải quyết, hoặc cố tình giam xe của bạn thì bạn có quyền làm đơn khiếu nại tới người đứng đầu của cơ quan này. Nếu không được giải quyết bạn có quyền làm đơn tố cáo tới người đứng đầu của cơ quan công an cấp trên trực tiếp để được giải quyết. Việc cơ quan công an tự ý giam xe của bạn, không điều tra xác minh làm rõ vụ việc là không đúng theo quy định pháp luật.
4. Trách nhiệm pháp lý đối với hành vi đánh nhau gây thương tích
Tóm tắt câu hỏi:
Nhà ông A và nhà B có xích mích về đường đi sau đó được chính quyền xã giải quyết nhưng ông B cho rằng chính quyền thiên vị nhà ông A nên nhà ông B đã đánh vợ ông A, trong vụ xô sát vợ ông B bị tím mắt còn vợ ông A bị đá đập chảy máu đầu. Con ông A sau khi uống rượu say nghe mẹ bị đánh vác quốc đến đánh nhà ông B nhà ông B bị nát chiếc xe máy ông B đánh lại cầm chiếc tô vít to xiên chọc vào đầu bụng miệng con ông A. Tôi muốn hỏi ai sai và hai bên bị sử lí ra sao?
Luật sư tư vấn:
Trong tình huống này cần xác định những người có lỗi, có hành vi cố ý gây thương tích cho người khác bao gồm:
+ Hành vi thứ nhất: Nhà ông B đánh vợ ông A dẫn đến chảy máu đầu.
+ Hành vi thứ hai: Vợ ông A có đánh lại vợ ông B dẫn đến vợ ông B bị tím mắt.
+ Hành vi thứ ba: Con ông A sau khi uống rượu say nghe mẹ bị đánh vác cuốc đến đánh nhà ông B dẫn đến tài sản bị hủy hoại là nát chiếc xe máy nhà ông B
+ Hành vi thứ tư: Ông B đánh lại cầm chiếc tô vít to xiên chọc vào đầu bụng miệng con ông A.
– Căn cứ Điều 104 “Bộ luật hình sự năm 2015”, quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người khác như sau:
“Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.”
Đối với hành vi thứ nhất nhà ông B đánh vợ ông A dẫn đến chảy máu đầu. Cần phải xác định nhà ông B trong trường hợp này bao gồm những ai, và thiệt hại về sức khoẻ của vợ ông A sau khi giám định của cơ quan công an là ở mức thương tật bao nhiêu phần trăm. Trong trường hợp tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng có tổ chức thì đủ điều kiện cấu thành tội phạm hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 104 “Bộ luật hình sự năm 2015”, quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người khác nêu trên.
– Căn cứ Điều 15 “Bộ luật hình sự năm 2015” quy định về phòng vệ chính đáng như sau:
“Điều 15. Phòng vệ chính đáng
1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự.”
– Căn cứ Điều 106 “Bộ luật hình sự năm 2015” quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng như sau:
“Điều 106. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
2. Phạm tội đối với nhiều người thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm.”
Đối với hành vi thứ hai vợ ông A có đánh lại vợ ông B dẫn đến vợ ông B bị tím mắt, ban đầu có thể do bị đánh nên vợ ông A chống trả trong phạm vi phòng vệ chính đáng quy định tại Khoản 1 Điều 15 “Bộ luật hình sự năm 2015” quy định về phòng vệ chính đáng nêu trên. Tuy nhiên, hậu quả xảy ra là vợ ông B bị tím mắt thì đã vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo quy định tại Khoản 2 Điều 15 “Bộ luật hình sự năm 2015” quy định về phòng vệ chính đáng nêu trên. Và người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này cần có kết quả giám định tỷ lệ thương tật của cơ quan công an có thẩm quyền để xác định có đủ căn cứ cấu thành tội phạm hình sự về tội cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 106 “Bộ luật hình sự năm 2015” nêu trên hay không.
– Căn cứ Điều 105 “Bộ luật hình sự năm 2015” quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh như sau:
“Điều 105. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Đối với nhiều người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác”.
– Căn cứ Điều 143 “Bộ luật hình sự năm 2015”, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản như sau:
“Điều 143. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ hai triệu nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Để che giấu tội phạm khác;
đ) Vì lý do công vụ của người bị hại;
e) Tái phạm nguy hiểm;
g) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.”
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Đối với hành vi thứ ba của con ông A sau khi uống rượu say nghe mẹ bị đánh vác cuốc đến đánh nhà ông B dẫn đến tài sản nhà ông B bị nát chiếc xe máy, cần phải xác định trạng thái của con ông A khi có hành vi đến đánh nhà ông A, cố ý gây thương tích có để lại hậu quả về sức khoẻ cho ai không,tỷ lệ thương tật như thế nào, trang thái của con ông A có thuộc trường hợp bị kích động mạnh theo quy định tại Điều 105 “Bộ luật hình sự năm 2015” nêu trên không. Ngoài ra việc con ông A làm hỏng nát chiếc xe máy nhà ông B, cần phải xác định giá trị của chiếc xe có từ hai triệu đồng trở lên hay không và có đủ yếu tố cấu thành tội phạm về tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Điều 143 “Bộ luật hình sự năm 2015”, sửa đổi bổ sung năm 2009 nêu trên hay không.
Đối với hành vi thứ tư, ông B đánh lại A và cầm chiếc tô vít to xiên chọc vào đầu bụng miệng con ông A. Tương tự như các hành vi cố ý gây thương tích nêu trên, cần có giám định thương tật của cơ quan công an có thẩm quyền để xác định tội danh cũng như khung hình phạt đối với ông B.
5. Truy cứu trách nhiệm khi trẻ dưới 15 tuổi đánh nhau
Tóm tắt câu hỏi:
Trên đường đi học về cháu Nam (10 tuổi) đã có hành vi chửi bới cháu Huy (10 tuổi). Cháu Huy tức giận nhảy lại đấm Nam 1 cái ở phía sau, cùng lúc đó cháu Nhân bạn học chung với Nam và Huy, đã vác chiếc xe đạp lại chấn Nam, kết quả Nam bị gãy sống mũi. Gia đình Nhân đã đưa Nam đi viện, gia đình Huy cũng đã bồi thường 5.000.000đồng và quan tâm hỏi han tới Nam nhưng gia đình Nam vẫn chưa thỏa đáng còn bắt bồi thường thêm tiền. Luật sư tư vấn cho e hỏi trong trường hợp này Huy có phải đưa thêm tiền không ạ
Luật sư tư vấn:
Dựa theo thông tin bạn cung cấp, hiện nay có xảy ra sự kiện đánh nhau giữa những người chưa thành niên. Cụ thể Nam (10 tuổi) đã có hành vi chửi mắng Huy (10 tuổi) dẫn đến việc xảy ra mâu thuẫn, Huy tức giận nhảy lên đấm vào người Nam từ phía sau. Nhân – bạn học chung với Nam và Huy, đã vác xe đạp “chấn” vào người Nam, được hiểu là sử dụng xe đạp ném, tác động vào người Nam gây tổn thương cho Nam, làm cho Nam bị gãy sống mũi
Có thể thấy, trong trường hợp này, giữa Nam, Huy, Nhân đã có hành vi đánh nhau, trong đó hành vi của Nhân đã gây ra thương tích, tổn thương cơ thể cho Nam, còn trong thông tin không nói rõ, việc Huy nhảy lên đấm Nam có gây ra tổn hại sức khỏe gì cho Nam hay không. Hơn nữa, Nam với Huy xảy ra cãi vã, mâu thuẫn trước, còn Nhân chỉ tham gia vào vụ việc này khi trên đường đi học về thấy việc Huy đang nhảy lên đấm Nam, mới tham gia vào. Hành vi của Nhân là hành vi bộc phát, không có sự chuẩn bị từ trước. Nam bị tổn thương gãy sống mũi, nhưng chưa thực hiện việc giám định thương tật để xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể. Trong trường hợp này, với hành vi đánh nhau, Nhân, Huy, Nam có thể phải chịu các loại trách nhiệm tương ứng với hành vi của mình. Cụ thể:
Thứ nhất, về trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự.
Căn cứ theo quy định của pháp luật, cụ thể tại khoản 1 Điều 33
Trường hợp này, khi xem xét về vấn đề trách nhiệm hình sự thì căn cứ theo quy định tại Điều 12
Về việc xử phạt hành chính đối với hành vi đánh nhau của Nam, Nhân, Huy thì căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 5
Thứ hai, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Căn cứ theo quy định tại Điều 21
Bởi căn cứ theo quy định tại Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, và nghĩa vụ hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
Đồng thời, tại Điều 586 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng có quy định cụ thể về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, cụ thể:
“Điều 586. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.”
Xem xét trong trường hợp của bạn, bạn Nhân là người có hành vi cố ý, sử dụng chiếc xe đạp như một vũ khí, ném vào người Nam gây thiệt hại về sức khỏe cho Nam, làm cho Nam bị gãy sống mũi. Còn Huy, trong trường hợp hành vi cố ý nhảy lên đấm vào người Nam gây ra tổn thương cho cơ thể Nam như bị bầm, bị sưng, hay bị tổn thương khác thì đây vẫn được xác định là hành vi cố ý gây ra tổn hại cho sức khỏe của Nam. Về mặt nguyên tắc theo quy định tại Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015, Nhân và Huy vẫn phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Tuy nhiên, vì Nhân, Huy chỉ mới có 10 tuổi – là người chưa thành niên, nên căn cứ theo quy định tại Điều 586 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì khi Nhân gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường thiệt hại.
Trường hợp tài sản của cha, mẹ không đủ điều kiện để bồi thường mà Nhân, Huy có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp Nhân, Huy gây ra thiệt hại trong thời gian trường học trực tiếp quản lý. Tuy nhiên, theo thông tin, vụ việc đánh nhau giữa Nam, Nhân và Huy xảy ra trên đường đi học về, tức là không thuộc thời gian do trường học trực tiếp quản lý, nên Nhà trường không có trách nhiệm trong việc bồi thường với thiệt hại đã xảy ra.
Trường hợp Nhân, Huy không còn cha, mẹ hoặc cha, mẹ bị mất năng lực hành vi dân sự mà có người giám hộ thì người giám hộ sẽ được dùng tài sản của người được giám hộ (ở đây là bạn Nhân hoặc Huy) để thực hiện việc bồi thường. Trường hợp Nhân và Huy không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ cho Nhân, Huy sẽ phải bồi thường bằng tài sản của mình. Nếu người giám hộ cho Nhân, Huy chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
- Về mức bồi thường:
Căn cứ theo Điều 585 Bộ luật dân sự năm 2015, thì thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể tự thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được xem xét để giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì căn cứ theo quy định tại Điều 587 Bộ luật Dân sự năm 2015, những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.
Xem xét trường hợp của bạn, Nam là người bị tổn hại về sức khỏe do hành vi cố ý của Huy và Nhân. Trường hợp này, Huy và Nhân có thể thỏa thuận về việc bồi thường với gia đình Nam. Trách nhiệm bồi thường của từng người sẽ được xác định theo mức độ lỗi trong việc gây ra tổn hại sức khỏe cho Nam.
Trường hợp các bên không thỏa thuận được về vấn đề bồi thường thì có quyền yêu cầu Tòa án xác định về mức bồi thường theo quy định pháp luật.
- Về căn cứ xác định thiệt hại:
Thiệt hại xảy ra với Nam là bị gãy sống mũi, cũng có thể bị chấn thương, sưng tấy ở cơ thể, đây là những thiệt hại về sức khỏe. Trường hợp này, căn cứ theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015, và hướng dẫn tại Mục II Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP thì thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
– Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, giảm sút của người bị thiệt hại (ở đây là Nam). Trong đó, chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất bị giảm sút của Nam sẽ bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa Nam đi cấp cứu tại cơ sở y tế, chi phí chiếu, chụp X-quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu,… theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sĩ…
– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Nam chỉ mới 10 tuổi, đang sống phụ thuộc vào cha, mẹ và chưa có khả năng lao động để tạo ra nguồn thu nhập thực tế, nên khoản tiền này không được xem xét đến khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm của Nam.
– Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại. Khoản tiền này bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí cho những người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế. Khoản tiền này áp dụng trong những trường hợp người thân của Nam phải nghỉ việc để thường xuyên chăm sóc Nam, và vì vậy mà bị mất đi tiền công, tiền lương hoặc thu nhập thực tế trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại – ở đây là Nam.
– Thiệt hại khác do luật quy định.
Luật sư
– Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Trường hợp không thỏa thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp về tinh thần sẽ phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại.
Xem xét trong trường hợp của bạn, sau khi xảy ra thiệt hại về sức khỏe với Nam thì gia đình Nhân đã kịp thời đưa Nam đi viện, gia đình Huy cũng đã bồi thường 5.000.000 đồng, quan tâm hỏi han tới Nam, nhưng gia đình Nam đang không đồng ý với mức bồi thường. Như đã phân tích, khi xem xét đến trường hợp của Nam thì cả Huy và Nhân đều có nghĩa vụ liên đới trong việc bồi thường đối với thiệt hại xảy ra đối với sức khỏe của Nam. Mỗi người Nhân, Huy, mà ở đây đại diện chủ thể bồi thường là cha, mẹ hoặc người giám hộ của Nhân và Huy sẽ có trách nhiệm bồi thường trong phạm vi mức độ lỗi mà Nhân, Huy gây ra. Trường hợp không xác định được mức độ lỗi thì mỗi bên bồi thường một nửa thiệt hại cho Nam. Hiện nay, Huy đã thực hiện việc bồi thường 5.000.000 đồng. Việc Huy có phải bồi thường thêm hay không phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa gia đình Huy với gia đình Nam. Trường hợp không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án xác định dựa trên mức độ lỗi và thiệt hại thực tế xảy ra đối với Nam.
Như vậy, Nhân và Huy mặc dù đã gây ra thiệt hại về sức khỏe đối với Nam nhưng đều không thuộc đối tượng bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay xử phạt hành chính, tuy nhiên, cha, mẹ hoặc người giám hộ của Nhân và Huy vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Nam khi phát sinh thiệt hại về sức khỏe của Nam do hành vi của Nhân và Huy gây ra. Mức bồi thường, hình thức bồi thường sẽ do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được sẽ do Tòa án xác định dựa trên mức độ lỗi của các bên và thiệt hại thực tế xảy ra. Bạn cần căn cứ vào tình hình thực tế để có sự xác định cụ thể.