Hiện nay, vấn đề cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp vẫn được diễn ra. Vậy theo quy định hiện nay thì hành vi cạnh tranh gây ra thiệt hại có phải bồi thường hay không?
Mục lục bài viết
1. Hành vi cạnh tranh gây ra thiệt hại có phải bồi thường?
Câu hỏi: Chị L ở Bình Dương đặt câu hỏi:
Chào luật sư, tôi có câu hỏi như sau mong muốn được luật sư giải đáp. Gia đình tôi kinh doanh đồ gỗ và cạnh nhà tôi cũng có một gia đình nữa cũng kinh doanh đồ gỗ mỹ nghệ như gia đình tôi. Chúng tôi bán các sản phẩm theo giá thị trường hiện hành, tuy nhiên gần đây phía cửa hàng của gia đình hàng xóm chúng tôi liên tục bán hàng giá rẻ hơn thị trường rất nhiên nên khách hàng đổ dồn vào cửa hàng của họ mua. Tôi nhận thấy hành vi của cửa hàng đó là cạnh tranh không lành mạnh do đồ gỗ bán theo giá thị trường thì luôn ổn định và cao giúp các cửa hàng cạnh tranh bán hàng một cách công bằng. Việc gia đình hàng xóm bán phá giá như vậy ảnh hưởng đến rất nhiều hộ kinh doanh khác chứ không phải riêng ra đình tôi. Vậy luật sư cho tôi hỏi trường hợp cạnh tranh không lành mạnh như vậy thì có phải bồi thường thiệt hại hay không? Tôi xin cảm ơn luật sư đã giải đáp cho tôi.
Căn cứ theo quy định tại quy định tại Điều 110
– Đối với trường hợp tổ chức, cá nhân nếu có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu trường hợp gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì sẽ phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
– Đối với mỗi hành vi vi phạm về pháp luật về cạnh tranh, tổ chức, cá nhân vi phạm sẽ phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính bao gồm: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền.
– Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh ngoài ra còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
+ Bị thu hồi Giấy chứng nhận về đăng ký doanh nghiệp hoặc các văn bản tương đương, tước quyền sử dụng đối với giấy phép, chứng chỉ hành nghề;
+ Bị tịch thu tang vật và phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh;
+ Bị tịch thu về các khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện các hành vi vi phạm.
– Ngoài các hình thức bị xử phạt theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, thì đối với trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:
+ Phải thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng các vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền;
+ Phải loại bỏ các điều khoản về vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa thuận hoặc các giao dịch kinh doanh;
+ Doanh nghiệp phải chia, tách, bán lại một phần hoặc toàn bộ số vốn góp, tài sản của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;
+ Doanh nghiệp chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp được hình thành sau tập trung kinh tế;
+ Doanh nghiệp phải cải chính công khai;
+ Cuối cùng là các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động của hành vi vi phạm.
Như vậy, căn cứ theo quy định trên thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà cá nhân, tổ chức vi phạm hành vi cạnh tranh bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu trường hợp gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
2. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm:
Căn cứ theo quy định tại Điều 45
– Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh dưới các hình thức sau đây:
+ Cá nhân, tổ chức có hành vi tiếp cận, thu thập thông tin bí mật trong kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu thông tin đó;
+ Cá nhân, tổ chức có hành vi tiết lộ, sử dụng những thông tin bí mật trong hoạt động kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó.
– Cá nhân, tổ chức có hành vi ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng các hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không được giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.
– Cá nhân, tổ chức có hành vi cung cấp thông tin không trung thực về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp cũng cấp những thông tin không trung thực về doanh nghiệp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.
– Cá nhân, tổ chức có hành vi ây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp đó.
– Cá nhân, tổ chức có hành vi lôi kéo khách hàng bất chính bằng các hình thức sau đây:
+ Cá nhân, tổ chức có hành vi cung cấp những thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp hoặc các hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp khác;
+ So sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác nhưng lại không chứng minh được nội dung.
– Cá nhân, tổ chức có hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó.
– Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác bị cấm theo quy định của luật khác.
Như vậy, các hành vi nêu trên là những hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị pháp luật cấm.
3. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh gây ra:
Căn cứ theo quy định tại Điều 77 và Điều 80 Luật Cạnh tranh 2018, thời hiệu để thực hiện việc khiếu nại vụ việc cạnh tranh được xác định là 02 năm tính từ thời điểm hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực hiện.
Ngoài ra, trong chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ luật Dân sự 2015 cụ thể tại Điều 588 cũng có quy định rõ về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại được xác định là 03 năm nhưng kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Như vậy, căn cứ theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, để xác định một hành vi vi phạm pháp luật có thể diễn ra từ rất lâu, nếu trường hợp người thực hiện hành vi đó gây ra thiệt hại cho người khác thì thời hiệu khởi kiện sẽ được tính từ thời điểm bên bị thiệt hại biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại chứ không phải tại thời điểm hành vi được thực hiện.
Trên đây là tư vấn của Luật sư Luật Dương Gia các nội dung mà liên quan đến hành vi canh tranh gây ra thiệt hại có phải bồi thường. Trường hợp quý bạn cần những hỗ trợ cụ thể hay những giải đáp hợp lý, cụ thể hơn thì quý bạn đọc có thể liên hệ qua số điện thoại hotline 1900.6568 thì sẽ được chúng tôi hỗ trợ tư vấn cho quý bạn đọc nhé. quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể thao
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Cạnh tranh 2018.