Chủ bằng bảo hộ giống cây trồng được hưởng nhiều quyền lợi như độc quyền khai thác, sử dụng và thương mại hóa giống cây trồng đã được bảo hộ. Tuy nhiên, quyền này cũng không phải là tuyệt đối và có thể bị hạn chế trong một số trường hợp nhất định. Hãy cùng tìm hiểu về vấn đề này trong bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Chủ bằng bảo hộ giống cây trồng sẽ bị hạn chế quyền gì?
Quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng bị hạn chế theo quy định tại Điều 190 Văn bản hợp nhất Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022. Cụ thể, các hành vi sau đây không bị coi là xâm phạm quyền đối với giống cây trồng đã được bảo hộ:
-
Sử dụng giống cây trồng phục vụ nhu cầu cá nhân và phi thương mại: Người sử dụng giống cây trồng cho các mục đích cá nhân, gia đình hoặc không nhằm mục đích kinh doanh sẽ không bị coi là vi phạm quyền của chủ bằng bảo hộ.
-
Sử dụng giống cây trồng nhằm mục đích thử nghiệm: Các hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm giống cây trồng nhằm cải thiện hoặc đánh giá giống cây trồng không bị coi là xâm phạm quyền bảo hộ.
-
Sử dụng giống cây trồng để tạo ra giống cây trồng khác: Người sử dụng giống cây trồng đã được bảo hộ để lai tạo, phát triển giống cây trồng mới sẽ không bị coi là vi phạm quyền, trừ trường hợp được quy định tại Điều 187 Luật Sở hữu trí tuệ.
-
Hộ sản xuất cá thể sử dụng sản phẩm thu hoạch từ giống cây trồng để tự nhân giống và gieo trồng cho vụ sau trên diện tích đất của mình: Hộ gia đình có thể sử dụng sản phẩm từ giống cây trồng đã được bảo hộ để tự nhân giống và gieo trồng lại cho mùa vụ tiếp theo trên diện tích đất của chính mình mà không bị coi là xâm phạm quyền bảo hộ.
Ngoài ra, quyền đối với giống cây trồng không được áp dụng đối với các hành vi liên quan đến vật liệu của giống cây trồng được bảo hộ đã được chủ bằng bảo hộ hoặc người được chủ bằng bảo hộ cho phép bán hoặc bằng cách khác đưa ra thị trường Việt Nam hoặc thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, có một số ngoại lệ:
-
Liên quan đến việc nhân tiếp giống cây trồng đó: Các hành vi liên quan đến việc tiếp tục nhân giống cây trồng từ vật liệu ban đầu.
-
Liên quan đến việc xuất khẩu các vật liệu của giống cây trồng có khả năng nhân giống vào những nước không bảo hộ các chi hoặc loài cây trồng đó: Xuất khẩu vật liệu giống cây trồng vào các quốc gia không bảo hộ các chi hoặc loài cây trồng, trừ trường hợp xuất khẩu vật liệu nhằm mục đích tiêu dùng, không bị coi là xâm phạm quyền bảo hộ.
Những quy định này nhằm cân bằng giữa việc bảo vệ quyền lợi của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng và việc đảm bảo không gây cản trở sự phát triển nông nghiệp, khuyến khích nghiên cứu và cải tiến giống cây trồng, cũng như đảm bảo lợi ích chung của xã hội.
2. Chủ bằng bảo hộ và tác giả giống cây trồng có nghĩa vụ gì?
Chủ bằng bảo hộ giống cây trồng có 06 nghĩa vụ cụ thể đã được quy định tại Điều 191 Văn bản hợp nhất Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022. Các nghĩa vụ này bao gồm:
-
Nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả giống cây trồng:
+ Chủ bằng bảo hộ giống cây trồng phải trả thù lao cho tác giả theo thỏa thuận giữa hai bên. Nếu không có thỏa thuận, mức thù lao được quy định như sau:
– 10% lợi nhuận trước thuế mà chủ bằng bảo hộ thu được từ việc sử dụng giống cây trồng để sản xuất, kinh doanh.
– 15% tổng số tiền mà chủ bằng bảo hộ nhận được từ mỗi lần thanh toán do chuyển giao quyền sử dụng giống cây trồng, trước khi nộp thuế.
– 35% tổng số tiền mà chủ bằng bảo hộ nhận được từ việc chuyển nhượng quyền đối với giống cây trồng lần đầu tiên, trước khi nộp thuế. Chủ bằng bảo hộ không được nhận thù lao cho các lần chuyển nhượng tiếp theo.
-
Đối với giống cây trồng là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước:
+ Chủ bằng bảo hộ phải trả thù lao cho tác giả theo các mức sau:
– Tối thiểu 10% và tối đa 15% lợi nhuận trước thuế thu được từ việc sử dụng giống cây trồng để sản xuất, kinh doanh.
– Tối thiểu 15% và tối đa 20% tổng số tiền nhận được từ mỗi lần thanh toán do chuyển giao quyền sử dụng giống cây trồng, trước khi nộp thuế.
– Tối thiểu 20% và tối đa 35% tổng số tiền nhận được từ việc chuyển nhượng quyền lần đầu tiên, trước khi nộp thuế. Chủ bằng bảo hộ không được nhận thù lao cho các lần chuyển nhượng tiếp theo.
-
Trường hợp giống cây trồng có đồng tác giả: Mức thù lao quy định tại các mục (1) và (2) là mức chung dành cho các đồng tác giả. Các đồng tác giả phải tự thỏa thuận việc phân chia số tiền thù lao nhận được từ chủ bằng bảo hộ.
-
Nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả: Nghĩa vụ này tồn tại trong suốt thời hạn bảo hộ của giống cây trồng.
-
Nộp lệ phí duy trì hiệu lực Bằng bảo hộ giống cây trồng: Chủ bằng bảo hộ phải nộp lệ phí cho cơ quan bảo hộ giống cây trồng trong thời hạn ba tháng sau ngày cấp Bằng bảo hộ cho năm hiệu lực đầu tiên, và trong tháng đầu tiên của mỗi năm hiệu lực tiếp theo.
-
Lưu giữ giống cây trồng và cung cấp thông tin: Chủ bằng bảo hộ phải lưu giữ giống cây trồng được bảo hộ và cung cấp thông tin, vật liệu nhân giống theo yêu cầu của cơ quan bảo hộ. Đồng thời, chủ bằng bảo hộ phải duy trì tính ổn định của giống cây trồng theo các tính trạng mô tả tại thời điểm cấp Bằng bảo hộ.
Những nghĩa vụ này đảm bảo rằng chủ bằng bảo hộ giống cây trồng tuân thủ đúng quy định pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho các tác giả giống cây trồng cũng như duy trì chất lượng và sự ổn định của giống cây trồng được bảo hộ.
3. Quy định mới về giới hạn quyền đối với giống cây trồng:
Theo khoản 74 Điều 1 Văn bản hợp nhất Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022, hai điều mới đã được bổ sung vào sau Điều 191 trong Mục 2 Chương XIV Phần thứ tư của Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Những quy định mới này sẽ được áp dụng từ ngày 01/01/2023, cụ thể như sau:
-
Nghĩa vụ của tổ chức chủ trì đối với giống cây trồng được chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước (Điều 191a):
+ Tổ chức chủ trì, tức là tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước, có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ liên quan đến giống cây trồng mà họ đã chọn tạo, phát hiện hoặc phát triển. Các nghĩa vụ này bao gồm việc đảm bảo bảo vệ và phát triển giống cây trồng theo quy định của pháp luật cũng như thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền lợi của tác giả giống cây trồng và các bên liên quan.
+ Tổ chức chủ trì cần tuân thủ các quy định về quản lý và sử dụng giống cây trồng, đảm bảo rằng giống cây trồng được sử dụng đúng mục đích và không vi phạm các quyền sở hữu trí tuệ của bên thứ ba.
+ Tổ chức chủ trì phải báo cáo về việc sử dụng và phát triển giống cây trồng, cung cấp các thông tin liên quan cho cơ quan quản lý nhà nước khi có yêu cầu.
-
Quyền của Nhà nước đối với giống cây trồng được chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước (Điều 191b):
+ Nhà nước có quyền đối với các giống cây trồng được chọn tạo, phát hiện hoặc phát triển từ các nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước. Quyền này bao gồm quyền quản lý, giám sát và kiểm soát việc sử dụng giống cây trồng nhằm đảm bảo rằng giống cây trồng được sử dụng đúng mục đích và không gây thiệt hại cho xã hội hoặc môi trường.
+ Nhà nước có quyền yêu cầu tổ chức chủ trì báo cáo và cung cấp thông tin liên quan đến giống cây trồng. Nhà nước cũng có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ và phát triển giống cây trồng, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.
+ Nhà nước có thể sử dụng giống cây trồng cho các mục đích công cộng hoặc các mục đích khác mà pháp luật cho phép, bao gồm việc chuyển giao quyền sử dụng giống cây trồng cho các tổ chức, cá nhân khác nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
Những quy định mới này nhằm đảm bảo việc quản lý và sử dụng giống cây trồng có hiệu quả, bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan và thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp và công nghệ sinh học. Đồng thời, các quy định này cũng thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc hỗ trợ và thúc đẩy nghiên cứu khoa học và công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực giống cây trồng.
THAM KHẢO THÊM: