Trong xã hội hiện nay, có rất nhiều trường hợp vô ý mà một người có thể có những lời nói xúi giục người khác nhưng có thể tác động khiến người đó tự sát. Vậy xúi giục, giúp người khác tự sát có bị xử lý hình sự không? Cùng tìm hiểu bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Xúi giục, giúp người khác tự sát có bị xử lý hình sự không?
1.1. Hành vi xúi giục, giúp người khác tự sát:
Xúi giục người khác tự sát là hành vi dùng lời nói hay hành động để kích động, dụ dỗ, lừa dối, thực đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ. Giúp người khác tự sát là hành vi tạo các điều kiện về vật chất, tinh thần để người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.
1.2. Xúi giục, giúp người khác tự sát có bị xử lý hình sự không?
Tội xúi giục hoặc giúp đỡ người khác tự sát được quy định tại Điều 131 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.
Cấu thành tội phạm tội xúi giục người khác tự sát bao gồm những mặt sau:
– Khách thể của tội phạm
Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát là một trong các tội phạm xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người mà được pháp luật bảo vệ gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội.
– Mặt khách quan của tội phạm
Tội xúi giục thể hiện qua các hành vi: kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của người bị hại. Hành vi xúi giục phải dẫn đến việc nạn nhân tự nguyện tự sát. Nếu hành vi xúi giục xuất hiện thêm những hành vi như dồn ép người khác hoặc buộc họ không còn con đường nào khác phải tự sát thì không phạm tội này mà phạm tội bức tử (Điều 130 Bộ luật Hình sự 2015).
Giúp người khác tự sát thể hiện qua các hành vi tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.
Kích động người khác tự sát là việc người phạm tội có những lời lẽ tác động tâm lý làm cho nạn nhân tự ái hoặc tiêu cực cao độ mà tự sát. Nếu không có những lời lẽ này thì chưa đến mức tự sát.
Dụ dỗ người khác tự sát là dùng những lời lẽ khôn khéo để người khác tự sát theo ý muốn của mình. Mục đích của việc dùng lời lẽ này là đều nhằm mong muốn người khác tự sát. Nếu nạn nhân đã có ý định tự sát từ trước thì một số lời nói kích động này chưa đủ cấu thành tội.
Giúp người khác tự sát là hành vi tạo các điều kiện vật chất, tinh thần để cho một người dễ dàng tự sát như: cung cấp thuốc độc, dây treo cổ, cho mượn dao, chỉ dẫn cách thức tự sát…Trong tất cả các trường hợp, người bị hại phải tự mình thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng, tội phạm hoàn thành từ thời điểm người bị xúi giục có hành vi tự sát.
Nếu hành vi giúp người khác tự sát nhưng hành vi đó lại có tính chất quyết định đến cái chết của nạn nhân thì người đó không phạm tội giúp người khác tự sát mà phạm tội giết người.
– Chủ thể của tội phạm
Có thể là bất kì ai từ đủ 16 tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự.
– Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi: Tội phạm này được thực hiện do lỗi cố ý, có nghĩa là người thực hiện hành vi phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể dẫn đến hậu quả người khác tự sát, tuy thấy trước hậu quả của hành vi đó nhưng vẫn thực hiện và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
Mục đích phạm tội: Nhằm xúi giục hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho người khác tự sát
Theo đó, người nào có hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ thì đã phạm tội này, điều luật không đề cập đến hậu quả là người bị xúi giục tự sát này có chết hay vẫn còn sống. Vậy nên trong trường hợp người đó tự sát nhưng không chết thì vẫn cấu thành tội này.
2. Khung hình phạt đối với tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát:
Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm khi thực hiện một trong những hành vi sau đây: Kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ hoặc Tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.
Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm khi thực hiện một trong các hành vi nêu ở khung 1 và khiến cho 02 người trở lên tự sát.
3. Phạm tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát có được hưởng án treo hay không?
Theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP (được sửa đổi bổ sung bởi Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP) thì người bị kết án phạt tù được hưởng án treo được khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, bị tuyên phải chấp hành hình phạt phạt tù không quá 03 năm.
Thứ hai, người bị xử phạt tù ngoài lần phạm tội này thì trước đó luôn chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
+ Trong trường hợp người bị kết án có thể được xem xét để cho hưởng án treo nếu được coi là:
++ Không có án tích hoặc đã được xóa án tích
++ Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà tính đến ngày phạm tội lần này đã quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật
++ Nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án
+ Và có đủ các điều kiện khác .
+ Đối với người bị kết án thì cũng có thể cho hưởng án treo mà khi định tội dù đã sử dụng tình tiết:
++ “đã bị xử lý kỷ luật” hoặc “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” hoặc “đã bị kết án”
++ Và có đủ các điều kiện khác
+ Đối với người bị kết án có thể cho hưởng án treo khi.mà vụ án được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) và có đủ các điều kiện khác.
Thứ ba, có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên:
+ Trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
+ Trong trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên và trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Thứ tư, có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định:
+ Nơi cư trú rõ ràng là nơi mà người được hưởng án treo về tạm trú hoặc thường trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo, có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú.
+ Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo:
++ Hợp đồng lao động
++ Hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Thứ năm, người phạm tội có khả năng tự cải tạo mà không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù và việc cho họ hưởng án treo không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, không gây nguy hiểm cho xã hội.
Khi xem xét, quyết định cho bị cáo hưởng án treo Tòa án phải xem xét thận trọng, chặt chẽ các điều kiện để bảo đảm việc cho hưởng án treo đúng quy định của pháp luật.
Án treo là một trong những biểu hiện rõ nét về chính sách hình sự của Nhà nước ta theo phương châm “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trùng trị kết hợp với cải tạo, giáo dục”, thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta, tạo điều kiện cho người bị kết án tự tu dưỡng và lao động tại cộng đồng. Án treo thực sự là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn trong tình hình hiện nay. Tuy trong hệ thống hình phạt có cải tạo không giam giữ, nhưng án treo rõ ràng có tính ưu việt hơn rất nhiều, có tính chất đặc trưng riêng mà cải tạo không giam giữ không thể thay thế được.
Trong trường hợp này, người phạm tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát có thể phải chịu khung hình phạt là bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm nên nếu phạm tội này mà bị xử phạt tù không quá 03 năm tù và đáp ứng được những điều kiện phân tích ở trên thì người phạm tội có thể được xem xét cho hưởng án treo.
Các văn bản pháp luật sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự năm 2015;
– Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo.