Đầu thú là hành vi của người phạm tội tự mình đến khai báo tại cơ quan có thẩm quyền về hành vi giết người của mình. Vậy giết người sau đó ra đầu thú thì có được giảm nhẹ hay không?
Mục lục bài viết
1. Giết người rồi ra đầu thú thì có được giảm nhẹ không?
Trước tiên, cần phải hiểu khái niệm về đầu thú. Căn cứ theo quy định tại Điều 4 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về đầu thú, theo đó thì đầu thú là việc người phạm tội sau khi đã bị phát hiện về hành vi phạm tội của mình đã tự nguyện ra khai báo tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi phạm tội đó.
Căn cứ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sẽ bao gồm các tình tiết như sau:
– Người phạm tội đã thực hiện hành vi ngăn chặn, giảm bớt tác hại của tội phạm trên thực tế trong phạm vi khả năng của mình;
– Người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, có hành vi khắc phục hậu quả;
– Người phạm tội phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi thực hiện hoạt động bắt giữ người phạm tội của cơ quan chức năng có thẩm quyền;
– Phạm tội trong trường hợp bị kích động mạnh về tinh thần, nguyên nhân dẫn đến vấn đề kích động về tinh thần trong trường hợp này là do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
– Phạm tội xuất phát vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tuy nhiên hoàn cảnh khó khăn đó không phải do người phạm tội tự mình gây ra;
– Phạm tội tuy nhiên chưa gây ra hậu quả trên thực tế, hoặc có gây ra hậu quả nhưng hậu quả thiệt hại không lớn;
– Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
– Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức, dẫn đến khả năng không thể chống cự và không có sự lựa chọn nào khác;
– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức, trường hợp hạn chế khả năng đó không phải do lỗi của người phạm tội gây ra;
– Phạm tội do bị lạc hậu, người phạm tội được xác định là phụ nữ có thai, người phạm tội được xác định là người từ đủ 70 tuổi trở lên;
– Người phạm tội được xác định là người khuyết tật nặng, hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về khuyết tật;
– Người phạm tội tự thú, người phạm tội là người mắc các bệnh dẫn đến khả năng hạn chế nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Người phạm tội đã có công chuộc tội, giúp đỡ tích cực cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình phát hiện và điều tra tội phạm;
– Người phạm tội có hành vi thành khẩn khai báo tại cơ quan có thẩm quyền, ăn năn hối cải, có thành tích xuất sắc trong quá trình sản xuất, chiến đấu, học tập và công tác;
– Người phạm tội có mối quan hệ là cha mẹ, vợ chồng, con của các đối tượng là liệt sĩ, người có công với cách mạng.
Đồng thời, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định, trong quá trình quyết định hình phạt, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án hoàn toàn có thể coi tình tiết đầu thú hoặc tình tiết khác là một trong những tình tiết giảm nhẹ, tuy nhiên cần phải ghi rõ tình tiết đó là tình tiết giảm nhẹ trong bản án khi tuyên án.
Bên cạnh đó, các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự năm 2015 quy định là dấu hiệu định tội hoặc dấu hiệu định khung thì sẽ không được phép coi tình tiết giảm nhẹ đó là tình tiết giảm nhẹ trong quyết định hình phạt.
Theo đó thì có thể nói, theo điều luật phân tích nêu trên, khi phạm tội giết người thì việc người phạm tội ra tự thú sẽ được áp dụng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Còn đối với việc đầu thú, thì có coi tình tiết đầu thú là tình tiết giảm nhẹ hay không sẽ phụ thuộc vào quyết định của tòa án, tức là tòa án sẽ là cơ quan có thẩm quyền xem xét và quyết định trong việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ “đầu thú”. Đối với người phạm tội, trong trường hợp coi đầu thú là tình tiết giảm nhẹ đối với người phạm tội, thì tòa án bắt buộc phải ghi rõ đó là tình tiết giảm nhẹ trong bản án.
2. Giết người rồi ra đầu thú có được tha tù trước thời hạn có điều kiện không?
Để có thể xác định giết người xong ra đầu thú có được tha tù trước thời hạn có điều kiện hay không thì cần phải tìm hiểu quy định của pháp luật về vấn đề này. Căn cứ theo quy định tại Điều 66 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định cụ thể về vấn đề tha tù trước thời hạn có điều kiện. Theo đó, người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, hoặc người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm ít nghiêm trọng có thể sẽ được tha tù trước thời hạn khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện sau đây:
– Phạm tội lần đầu;
– Có nhiều tiến bộ, có ýthức tốt;
– Có nơi cư trú và địa điểm cư trú rõ ràng;
– Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung được xác định là hình phạt tiền, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại trong trường hợp xảy ra thiệt hại và án phí;
– Đã chấp hành được ít nhất một phần hai (1/2) mức phạt tù có thời hạn hoặc chấp hành ít nhất là 15 năm đối với trường hợp phạt tù chung thân, tuy nhiên đã được giảm xuống tù có thời hạn;
– Trong trường hợp người phạm tội được xác định là người có công với cách mạng, nhân thân của người có công với cách mạng, những người được xác định là người từ đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng theo quy định của pháp luật về khuyết tật hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì cần phải chấp hành ít nhất trong khoảng thời gian là 1/3 mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 12 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân, tuy nhiên đã giảm xuống tù có thời hạn;
– Không thuộc các trường hợp quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Theo đó thì có thể nói, giết người sau đó ra đầu thú tại cơ quan có thẩm quyền có thể sẽ được tha tù trước thời hạn nếu đáp ứng được đầy đủ các điều kiện nêu trên, tức là tình tiết “đầu thú” không phải là một trong những tình tiết có thể xem xét về việc được tha tù trước thời hạn có điều kiện hay không, mà cần phải xem xét, cân nhắc theo các yếu tố nêu trên.
3. Giết người rồi ra đầu thú có được miễn trách nhiệm hình sự không?
Giết người rồi ra đầu thú tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ được miễn trách nhiệm hình sự nếu người đó thỏa mãn một trong những trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự hiện nay đang được quy định cụ thể tại Điều 29 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cụ thể như sau:
– Người phạm tội theo quy định của pháp luật sẽ được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ cơ bản sau đây:
+ Trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của pháp luật, do có sự xuất hiện hoặc có sự thay đổi về chính sách pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội;
+ Khi có quyết định đại xá bởi chủ thể có thẩm quyền.
– Người phạm tội có thể sẽ được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ cơ bản như sau:
+ Trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử do biến chuyển của tình hình, mà người phạm tội không còn có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội;
+ Trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra, truy tố hoặc xét xử, người phạm tội mắc các chứng bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội;
+ Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác trên thực tế, người phạm tội đã có hành vi tự thú, khai rõ và trình báo rõ ràng về sự việc, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình phát hiện và điều tra tội phạm của các lực lượng chức năng, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, có hành vi lập công lớn tại cơ quan có thẩm quyền, có công hiến đặc biệt và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền và xã hội thừa nhận.
– Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nghiêm trọng xuất phát từ lỗi vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, gây thiệt hại về tính mạng hoặc sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật, đã có hành vi khắc phục hậu quả trong phạm vi cần thiết, được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện bãi nại trên thực tế, những người đó đã có đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, thì theo quy định của pháp luật, trong trường hợp này người phạm tội cũng có thể sẽ được miễn trách nhiệm hình sự.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017).