Cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế, xã hội, các loại tài sản tham gia vào các giao dịch dân sự không chỉ đa dạng mà còn phong phú về hình thức. Trong đó, giấy tờ có giá là một trong những loại tài sản được phép giao dịch trong các giao dịch dân sự. Vậy giấy tờ có giá là gì? Các nhầm lẫn hay gặp về giấy tờ có giá?
Mục lục bài viết
1. Giấy tờ có giá là gì?
Giấy tờ có giá được xác định là một loại tài sản theo quy định tại Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015, nhưng trong Bộ luật Dân sự cũng không có quy định cụ thể về khái niệm “giấy tờ có giá”.
Tuy nhiên, hiện nay, trong quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể tại khoản 8 Điều 6
Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác. Giấy tờ có giá bao gồm: giấy tờ có giá loại ghi sổ (dưới hình thức bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử) và giấy tờ có giá loại chứng chỉ.
Về các loại giấy tờ được xác định là giấy tờ có giá thì căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể điểm c khoản 2 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, giải đáp về nghiệp vụ được quy định tại Công văn 141/TANDTC-KHXX ngày 21 tháng 09 năm 2011 có quy định các loại giấy tờ có giá bao gồm:
– Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu theo quy định của Pháp lệnh về ngoại hối.
– Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, Séc, Công cụ chuyển nhượng khác theo quy định của Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005 (trừ công cụ nợ dài hạn được tổ chức phát hành nhằm huy động vốn trên thị trường).
– Tín phiếu, trái phiếu, hối phiếu, công trái và công cụ khác theo quy định của pháp luật quản lý về nợ công.
– Các loại chứng khoán theo quy định tại Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006, sửa đổi năm 2010, gồm các giấy tờ như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, nhóm chứng khoán, chỉ số chứng khoán, Hợp đồng góp vốn đầu tư và các loại chứng khoán khác.
Qua phân tích ở trên, có thể xác định chỉ có những giấy tờ được ghi nhận tại Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010, Công văn 141/TANDTC-KHXX ngày 21 tháng 09 năm 2011 mới được xác định là giấy tờ có giá. Các loại giấy tờ khác mà không thuộc các giấy tờ được liệt kê ở trên thì không được xác định là giấy tờ có giá.
2. Một số vấn đề nhầm lẫn về giấy tờ có giá:
Như đã phân tích, trong quy định của Bộ luật Dân sự – văn bản pháp luật chung áp dụng cho mọi quan hệ dân sự, giấy tờ có giá được xác định là một loại tài sản được sử dụng trong các giao dịch dân sự, nhưng Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định về khái niệm của “giấy tờ có giá”, khiến cho nhiều chủ thể tham gia giao dịch dân sự bối rối trong việc xác định về giấy tờ có giá. Trong khi đó, khái niệm về “giấy tờ có giá” mặc dù được quy định trong Thông tư 16/2022/TT-NHNN, Thông tư 01/2012/TT-NHNN, nhưng đây lại là những văn bản pháp luật chuyên ngành, cụ thể là trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, không phải tất cả mọi người ai cũng biết đến, quan tâm đến, tiếp cận và hiểu rõ các văn bản trong lĩnh vực này. Điều này, dẫn đến việc nhiều người hiểu nhầm về khái niệm “giấy tờ có giá” cũng như nhầm lẫn trong việc xác định giấy tờ có giá trong giao dịch dân sự.
Bởi xuất phát từ cách hiểu “nôm na”, theo định nghĩa cơ bản trong Tiếng Việt, nhiều người vẫn quan niệm và hiểu đơn giản “giấy tờ có giá” là giấy tờ mà có giá trị, mang trị giá được bằng tiền, hay lượng tiền nhất định. Đồng thời theo quy định chung của Bộ luật dân sự năm 2015, “giấy tờ có giá” là tài sản, có thể mua bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố…tham gia các giao dịch dân sự. Xuất phát từ cách hiểu này, dẫn đến nhiều người nhầm lẫn khi xác định các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy đăng ký xe… là giấy tờ có giá khi tham gia giao dịch. Đây là một thực tế đang diễn ra khá phổ biến.
Tuy nhiên, các giấy tờ như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy đăng ký xe… vốn không phải là chứng từ, bằng chứng ghi nhận nghĩa vụ trả nợ, mà nó chỉ là giấy tờ pháp lý ghi nhận quyền của chủ sở hữu tài sản, chủ sở hữu quyền sử dụng nên hoàn toàn không được xác định là giấy tờ có giá theo khái niệm được quy định tại khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, khoản 1 Điều 3 Thông tư 16/2022/TT-NHNN, khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN, nó cũng không được liệt kê vào danh sách các loại giấy tờ có giá được ghi nhận ở Công văn 141/TANDTC-KHXX được trích dẫn ở trên. Những giấy tờ này là những giấy tờ có giá trị, nhưng không phải là “giấy tờ có giá”, mà là giấy tờ chứa đựng quyền của chủ sở hữu tài sản. Cụ thể:
Ví dụ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, theo quy định tại khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 được xác định là chứng thư pháp lý ghi nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu về tài sản gắn liền với đất hợp pháp của chủ sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở gắn liền với đất. Nhìn chung, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, và tài sản khác gắn liền với đất là giấy tờ chứa đựng quyền sử dụng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản của chủ sử dụng đất hợp pháp. Bản thân Giấy tờ này không phải là một loại giấy tờ có giá, cũng không được xác định là một tài sản, nhưng lại có ý nghĩa mang tính chất là hình thức ghi nhận quyền tài sản – quyền sử dụng đất, một tài sản vô hình, gắn liền với một mảnh đất hữu hình.
Cũng tương tự như vậy, Giấy đăng ký xe là giấy tờ pháp lý xác nhận thông tin của chủ sở hữu chiếc xe, không được xác định là tài sản bởi tài sản ở đây là chiếc xe có đầy đủ thông tin được ghi nhận trên Giấy đăng ký xe đã được cấp.
Đồng thời, vì không được xác định là giấy tờ có giá, là tài sản nên khi có hành vi chiếm giữ trái phép, hoặc chiếm đoạt các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì chủ sở hữu các loại giấy tờ này cũng không thể khởi kiện theo hướng kiện đòi tài sản được, mà chỉ có thể yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền (ví dụ cơ quan công an) buộc người chiếm giữ trái phép trả lại tài sản cho chủ sở hữu.
Ví dụ: Anh A là chủ sử dụng đất hợp pháp của mảnh đất rộng 80 m2, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với mảnh đất này. Tuy nhiên, ngày 02/03/2016, lấy lý do là cần mượn “Sổ đỏ” (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với mảnh đất này” của anh A để kê khai, đối chiếu với “Sổ đỏ” của mình, anh C – một người họ hàng của anh A đã đến mượn “Sổ đỏ” của anh A nhưng sau khi mượn được, anh C đã cố tình không trả lại giấy tờ này cho anh A, mà đem đi cầm cố tại một “tổ chức tín dụng đen”. Sau đó, anh A phát hiện ra sự việc này. Trường hợp này vì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với mảnh đất 80 m2 của anh A không phải là giấy tờ có giá, không phải là tài sản nên anh A không thể khởi kiện đòi anh C trả lại tài sản được, nhưng có quyền yêu cầu tuyên bố giao dịch cầm cố giữa anh C và “tổ chức tín dụng đen” là vô hiệu. Đồng thời anh A có thể yêu cầu cơ quan công an can thiệp để yêu cầu anh C trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mình.
Trong khi đó, nếu một người đang sở hữu trái phiếu công ty mà khi đến thời hạn theo quy định của trái phiếu mà công ty phát hành trái phiếu vẫn chưa hoàn tất nghĩa vụ trả nợ cho người sở hữu trái phiếu thì người sở hữu trái phiếu vẫn có quyền yêu cầu thanh toán nghĩa vụ trả nợ.
Như vậy, qua phân tích nêu trên, có thể xác định, không phải bất cứ loại giấy tờ nào cũng được xác định là giấy tờ có giá, cũng được xác định là tài sản tham gia trong giao dịch dân sự. Việc xác định rõ khái niệm “giấy tờ có giá”, và các loại giấy tờ được xác định là giấy tờ có giá mang ý nghĩa quan trọng khi xác định đối tượng tài sản trong giao dịch dân sự, đảm bảo các chủ thể có thể hiểu rõ bản chất của giao dịch, từ đó có phương án đảm bảo quyền lợi của mình. Đồng thời, qua việc xác định giấy tờ có giá cũng để tránh việc nhầm lẫn đối với các giấy tờ pháp lý khác mang tính chất ghi nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của chủ sở hữu tài sản.
3. Phân biệt chiết khấu giấy tờ có giá và mua bán giấy tờ có giá:
Chiết khấu giấy tờ có giá là một quan hệ hợp đồng theo đó tổ chức tín dụng mua lại các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của khách hàng.
Mua bán giấy tờ có giá là việc thực hiện một quan hệ hợp đồng với bên mua và bên bán.
Sự khác biệt giữa chiết khấu giấy tờ có giá và mua bán giấy tờ có giá
Chủ thể
Chiết khấu giấy tờ có giá: tổ chức tín dụng chiết khấu là mua lại.
– Mua bán giấy tờ có giá: Tổ chức có thẩm quyền xem xét mua bán.
Bản chất
– Chiết khấu giấy tờ có giá: cấp tín dụng
– Mua bán giấy tờ có giá: quan hệ mua bán dân sự thông thường.
Thời hạn
– Chiết khấu giấy tờ có giá: phải thể hiện rõ trong hợp đồng
– Quan hệ mua bán dân sự thông thường: tại thời điểm chuyển giao, mọi thứ chấm dứt.
Mục đích sử dụng
– Chiết khấu giấy tờ có giá: sẽ quan tâm về sử dụng tiền bán như thế nào
– Mua bán giấy tờ có giá: không quan tâm về sử dụng tiền bán như thế nào
Giá mua
– Chiết khấu giấy tờ có giá: tính theo công thức luôn thấp hơn giá trị của giấy tờ có giá.
– Mua bán giấy tờ có giá: phụ thuộc vào thỏa thuận và nhu cầu của thị trường.
Hình thức
– Chiết khấu giấy tờ có giá: thể hiện thông qua hợp đồng chiết khấu bằng văn bản.
– Mua bán giấy tờ có giá: Phụ thuộc vào thỏa thuận có thể hợp đồng bằng văn bản, bằng lời nói hoặc có thể bằng hành vi.
Quyền của các bên
– Chiết khấu giấy tờ có giá: bên mua lại có quyền truy đổi, có quyền yêu cầu mua lại.
– Mua bán giấy tờ có giá: các nên không có quyền đổi hay mua lại.
4. Vé số có phải là giấy tờ có giá không?
Tóm tắt câu hỏi:
Anh A mua 5 tờ vé số, sau đó cho anh B. Trong 5 tờ đó có 2 tờ trúng giải đặc biệt. Anh A có ý định đòi lại 2 tờ vé số có giải này. Tuy nhiên khi đòi thì anh B không trả và cho rằng anh A đã cho mình rồi. Vậy trong trường hợp này anh A có quyền kiện đòi lại không? Tờ vé số có phải là giấy tờ có giá không?
Luật sư tư vấn:
Điều 457 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.
Như vậy, khi anh A tặng cho anh B năm tờ vé số thì tại thời điểm anh B nhận năm tờ vé số từ anh A, anh A đã chuyển quyền sở hữu của mình sang cho anh B và chấm quyền sở hữu của mình đối với năm tờ vé số đó. Đồng nghĩa, anh A không có quyền lấy lại trừ trường hợp hai bên đã có thỏa thuận khác.
Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng nhà nước 2010 quy định Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác. Ngoài ra, Công văn 141/TANDTC-KHXX hướng dẫn thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản gửi tới tòa án nhân dân các cấp xác định giấy tờ có giá bao gồm:
– Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác (Điều 1 Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005);
– Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu (điểm c khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005);
– Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ (điểm 16 Điều 3
– Các loại chứng khoán (khoản 1 Điều 6 của Luật chứng khoán năm 2006 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2010);
– Trái phiếu doanh nghiệp (Điều 2 của Nghị định số 52/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 của Chính phủ về “Phát hành trái phiếu doanh nghiệp”)
Do đó, tờ vé số không phải là giấy tờ có giá nên không thể kiện đòi để lấy lại.