Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng, chống tội phạm xâm hại tình dục nói chung và tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói riêng.
Tội phạm xâm hại tình dục nói chung và tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói riêng đã và đang gây ra những hậu quả, tác hại to lớn cho xã hội và cho chính nạn nhân, nó không chỉ trực tiếp xâm hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em mà còn để lại những hậu quả nặng nề, lâu dài cho gia đình và xã hội. Vì vậy, để hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại do tội phạm này gây ra, đòi hỏi các cấp, các ngành và sự chung tay của toàn xã hội trong việc triển khai đồng bộ các biện pháp để ngăn chặn được loại tội phạm này, cũng như giảm được hậu quả, tác hại mà tội phạm này gây ra, trong đó cần tập trung làm tốt một số giải pháp trọng tâm sau:
* Các giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử
– Trong hoạt động khởi tố, điều tra và truy tố: Khi giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải làm rõ các đặc điểm riêng biệt như: Độ tuổi, đặc điểm tính cách của nạn nhân, hoàn cảnh gia đình; bởi lẽ, đây là các yếu tố quan trọng hàng đầu để nhận diện tội phạm và người bị xâm phạm. Mặt khác, xuất phát từ đặc thù của đối tượng bị xâm hại là người dưới 16 tuổi đang trong giai đoạn phát triển, chưa hoàn thiện về mặt sinh lý và tâm lý, các dấu vết của loại tội phạm này thường nhanh chóng bị mất mà yêu cầu đặt ra là phải thu thập nhanh chóng, kịp thời đúng trình tự quy định. Vì vậy, trong công tác giải quyết các vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi, các Điều tra viên và Kiểm sát viên cần chủ động phối hợp chặt chẽ ngay từ khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm, kịp thời yêu cầu Cơ quan điều tra phối hợp với bác sĩ hoặc chuyên gia tâm lý, bác sĩ chuyên khoa phụ sản, cán bộ đã được đào tạo chuyên môn về quản lý, chăm sóc, giáo dục trẻ em để xử lý thông tin ban đầu; kịp thời thu giữ dấu vết vật chất đặc biệt là lông, tóc, sợi, dịch, máu, quần áo, công cụ trong các vụ án xâm hại tình dục trẻ em; thăm khám, thu thập dấu vết, vật chứng có liên quan trên thân thể nạn nhân để tiến hành giám định pháp y trong thời gian nhanh nhất nhằm kết luận có hay không dấu hiệu xâm hại tình dục.
Đối với một số vụ việc xâm hại tình dục trẻ em, khi xảy ra người bị hại và gia đình vì dư luận, định kiến xã hội, sợ ảnh hưởng đến tâm lý trẻ mà từ chối không hợp tác khai báo và không cung cấp thông tin liên quan, thậm chí tìm cách che giấu hành vi phạm tội cho chính đối tượng. Đối với những trường hợp này, các Điều tra viên và Kiểm sát viên cần tìm cách gặp và tiếp cận với bị hại hoặc đại diện bị hại, tùy vào từng đối tượng mà có cách tiếp cận khác nhau như: Đối với người đồng bào dân tộc thiểu số thì có thể thông qua già làng, trưởng bản; đối với những gia đình có tôn giáo, tín ngưỡng riêng thì cần thông qua những người có chức sắc, có uy tín, có tầm ảnh hưởng đối với họ … để nhờ họ động viên, tác động phía gia đình và người bị hại hợp tác đưa tội ác của người phạm tội ra trừng trị trước pháp luật.
Trong trường hợp không mời được chuyên gia tâm lý hỗ trợ điều tra, xác minh thì bản thân Điều tra viên, Kiểm sát viên được phân công giải quyết khi tiếp cận trẻ em cần quan sát thái độ, cử chỉ, hành động của các em. Khi hỏi trẻ em cần hỏi những câu rõ ý để trẻ em trả lời đúng, sử dụng từ ngữ đơn giản, dễ hiểu mà ở nhà ông bà, bố mẹ hay dùng để trao đổi với trẻ. Có phương pháp tiếp cận trẻ phù hợp khi lấy lời khai của các em ngay từ những lần đầu tiên, tạo cho các em có cảm giác yên tâm, thân thiện mà tự bộc bạch, khai báo, giãi bày suy nghĩ, giúp cơ quan chức năng sớm nhận diện hành vi phạm tội của đối tượng.
Đối với trường hợp bị hại là những em có quan hệ tình cảm, yêu đương với người phạm tội, đồng ý hoặc chủ động rủ rê, tạo điều kiện, gợi ý quan hệ tình dục trước, đến khi bị phát hiện do các em chưa nhận thức đầy đủ đã đồng tình hoặc chủ động trong quan hệ tình dục; khi người lớn phát hiện thường không động viên, nâng đỡ mà dùng bạo lực với các em, cộng với cảm giác mặc cảm, tội lỗi các em đã khai báo không đúng sự thật hoặc trường hợp khi trẻ em bị xâm hại nhưng do bị đe dọa nên sợ không dám nói ra sự thật Trong những trường hợp này, Điều tra viên, KSV phải kịp thời nắm bắt diễn biến tâm lý các em, yêu cầu Điều tra viên có phương pháp, cách thức tiếp cận ghi lời khai thu thập chứng cứ cho phù hợp, tạo cảm giác thân thiện và đảm bảo bí mật cá nhân, thân thể để trẻ thấy được tôn trọng, được chia sẻ, được thấu hiểu, yên tâm trình bày nội dung sự việc một cách trung thực nhất.
Về công tác khám nghiệm hiện trường đối với loại án này cũng hết sức quan trọng, đòi hỏi tính khẩn trương, kịp thời và nhanh chóng tỉ mỉ, toàn diện hơn các loại hiện trường khác, bởi chứng cứ vật chất phần lớn chỉ thu thập được tại hiện trường và chỉ thu thập được trong một thời gian nhất định. Đây là nguồn chứng cứ trực tiếp có giá trị chứng minh quan trọng để đánh giá lời khai của bị hại có căn cứ hay không, để làm căn cứ để đấu tranh với người phạm tội, vì đây là những chứng cứ quan trọng để truy nguyên đối tượng.
Cần đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về tâm lý, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi cho cán bộ điều tra, Kiểm sát viên để giải quyết các vụ án có liên đến người chưa thành niên, trong đó có tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; thường xuyên tổ chức việc trao đổi, rút kinh nghiệm trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về xâm hại tình dục trẻ em trong liên ngành tư pháp. Đồng thời, cần quan tâm sắp xếp các cán bộ theo hướng chuyên sâu, có tính ổn định theo từng lĩnh vực công tác.
– Trong hoạt động xét xử: Thực hiện
Bên cạnh đó, để công tác xét xử các vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi đạt hiệu quả, TANDTC cần tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ xét xử để trao đổi, rút kinh nghiệm công tác xét xử, nâng cao năng lực và kỹ năng xét xử cho các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và cán bộ công chức công tác trong TAND. Trong các buổi tập huấn này cần tập trung vào vấn đề định tội danh, quyết định hình phạt và việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nhằm bảo đảm nhận thức và áp dụng đúng đắn, thống nhất pháp luật. Đối với các vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi, bên cạnh việc đấu tranh, xử lý đối tượng phạm tội thì Thẩm phán phải là người hiểu tâm lý và thân thiện với trẻ em là nạn nhân trong vụ án.
Cần kiện toàn công tác tổ chức cán bộ, kịp thời phân bổ, bổ sung đủ nguồn nhân lực cho các Tòa án, bởi trên thực tế hiện nay tình hình tội phạm trên cả nước nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng đang diễn biến hết sức phức tạp, gia tăng về số lượng vụ việc cũng như tính chất phức tạp, trong khi đó đội ngũ Thẩm phán tại các Tòa án hiện nay vẫn đang còn thiếu, chưa đáp ứng được tình hình thực tiễn, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, hạn chế trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự nói chung và các vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói riêng.
* Các giải pháp về tăng cường tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Để công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói riêng đạt hiệu quả cần đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm hiếp dâm người dưới 16 tuổi, nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về bạo lực tình dục và phòng, chống bạo lực tình dục đặc biệt là đối với người dưới 16 tuổi. Công tác tuyên truyền, giáo dục cần được quan tâm hàng đầu nhằm đảm bảo đối tượng tác động của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nhận thức đúng đắn về các vấn đề giới tính, tránh bị các đối tượng xâm hại tình dục. Để làm được điều đó cần có hợp từ nhiều phía, trong đó gia đình, nhà trường và xã hội giữ vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ trẻ em trước nguy cơ xâm hại bị xâm hại. Cụ thể:
– Nâng cao nhận thức của các bậc làm cha mẹ trong gia đình: Việc nâng cao nhận thức của cha mẹ đối với quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em là vô cùng quan trọng. Các bậc cha mẹ phải nắm vững các quy định của pháp luật đối với vấn đề này để có hướng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục con cái phù hợp. Song song đó, các bậc cha mẹ cần phải chú ý những vấn đề sau: Một là, quan tâm sâu sát đến con cái đang trong độ tuổi dậy thì, bởi đây là độ tuổi có nguy cơ cao trở thành nạn nhân trong các vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Đồng thời cần hạn chế tối đa việc tạo ra những tình huống có thể đẩy con mình vào thế bị xâm hại như cho người lạ đến thuê nhà, đến chơi, ngủ qua đêm hoặc cho con cái tiếp xúc với người từ nơi khác đến mà mình không thể kiểm soát được. Có ý thức giáo dục con cái về nguy cơ xâm hại của loại tội phạm nguy hiểm này, tư vấn, hướng dẫn cho con tránh một số tình huống có thể dự liệu trước ngay khi con cái bắt đầu nhận thức được. Hai là, khi con cái bị xâm hại, chính cha mẹ cần xóa bỏ tư tưởng đổ lỗi cho con cái vì lỗi ở đây hoàn toàn không phải của các em. Có những trường hợp, các cháu bị xâm hại suốt một thời gian dài nhưng không dám nói với cha mẹ vì sợ bị cha mẹ đánh, mắng. Các cháu sẽ bị khủng hoảng tâm lý do lo sợ cha mẹ phát hiện và sự đe dọa của tội phạm. Cha mẹ phải thực sự là bạn của con để có thể nắm bắt mọi tâm tư tình cảm cũng như những biểu hiện khác thường của con mình. Ba là, cần có biện pháp bảo vệ con cái sau khi các cháu bị xâm hại vì lúc này tâm lý của các cháu thường bất ổn, hoảng sợ. Cần tránh cho các cháu khỏi dư luận cũng là một biện pháp quan trọng. Nếu cần thiết có thể đưa các cháu đến nơi sinh sống, học tập mới.
– Đề cao vai trò của nhà trường: Giáo dục ý thức tôn trọng quyền trẻ em bao gồm các quyền cơ bản được đề cập trong
– Vai trò của xã hội: Việc tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đến với mọi lứa tuổi, mọi đối tượng trong xã hội cũng như phổ biến, giáo dục pháp luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng như luật hình sự đến với mọi đối tượng trong xã hội là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc bảo vệ quyền trẻ em trước sự xâm hại của các loại tội phạm về tình dục. Do đó, đây được coi là biện pháp chủ chốt trong việc bảo vệ quyền trẻ em. Bên cạnh đó, cần có biện pháp quản lý, giáo dục đối với những đối tượng lang thang, không có nơi ở nhất định hoặc đối tượng di dân đến địa bàn vì đây là những đối đây là những đối tượng dễ sa ngã, rất khó quản lý khi có hành vi vi phạm xảy ra. Ngoài ra, cần có biện pháp quản lý việc sản xuất, phân phối, xuất khẩu, chuyển giao, nhập khẩu, sở hữu có dụng ý, quảng cáo văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em và nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác quốc tế về công nghệ Internet. Ngăn cấm việc sản xuất và phổ biến các tài liệu, văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em.
Nghiên cứu, bồi dưỡng kỹ năng phòng tránh bị xâm hại tình dục cho trẻ, nhất là trẻ em gái để tự bảo vệ mình, chủ động phòng ngừa hành vi xâm hại tình dục của đối tượng phạm tội. Thực tế cho thấy, các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội xâm hại tình dục trẻ em với nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau, trong đó nhiều đối tượng lợi dụng sự hạn chế trong nhận thức cũng như khả năng tự bảo vệ bản thân của các em để thực hiện hành vi xâm hại tình dục. Điều này đặt ra yêu cầu cần trang bị cho các em kỹ năng sống để phần nào tự bảo vệ mình trước những nguy cơ, hành vi xâm hại tình dục của kẻ xấu. Với những kỹ năng cần thiết như: Kỹ năng giao tiếp; kỹ năng nhận thức và kỹ năng kiên định… Khi đó các em sẽ tự nhận biết được những vấn đề mang tính tiêu cực, khả năng ứng phó với những tình huống có nguy cơ bị xâm hại tình dục và không bị dụ dỗ, lừa gạt tham gia vào các tệ nạn xã hội.
Ngoài ra, việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào công tác phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em cũng vô cùng quan trọng, như: Thiết kế lập trình website tuyên truyền, phổ biến thông tin, hướng dẫn về những vấn đề liên quan đến trẻ em bị xâm hại nói chung và xâm hại tình dục nói riêng có sự tham gia cố vấn chuyên môn của Cơ quan Cảnh sát điều tra; Tạo những group, những nhóm trên các mạng xã hội như Facebook và Zalo … để chia sẻ hình ảnh, video, những kinh nghiệm, thu thập ý kiến chuyên gia… để nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục cũng như hiệu quả công tác đấu tranh, điều tra các vụ án xâm hại tình dục nói chung và tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói riêng.