Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
Để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn cần phải tăng cường thêm một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng luật pháp nói chung và áp dụng pháp luật đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm một cách hiệu quả cần áp dụng đồng bộ các giải pháp sau:
Mục lục bài viết
1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng:
Để công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng được đúng hướng, hiệu quả, cần phải tiếp tục tăng cường và phát huy hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, tập trung vào các giải pháp cơ bản sau:
– Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thật sự coi công tác phòng, chống tham nhũng là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp phải cam kết về sự liêm khiết và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Các cấp ủy quản lý chặt chẽ đảng viên, cán bộ; thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở, ngăn ngừa và phát hiện cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
– Ủy ban Kiểm tra các cấp cần làm tốt công tác tham mưu giúp cấp ủy kiểm tra, giám sát trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao, dễ xảy ra sai phạm. Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự đảng, các tổ chức đảng và đảng viên ở các cơ quan nhà nước. Tổ chức chính trị – xã hội, lực lượng vũ trang, Tập đoàn kinh tế và Tổng công ty nhà nước, các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước. Cơ quan kiểm tra của Đảng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng của Nhà nước để kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời và công khai kết quả xử lý tổ chức, cán bộ, đảng viên có vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
2. Tăng cường công tác giải thích, tuyên truyền, phổ biến pháp luật:
Không có các văn bản giải thích, hướng dẫn quy định của BLHS thì nhiều quy định của BLHS không thể áp dụng được hoặc nếu có áp dụng thì cũng trong tình trạng không thống nhất. Do đó, công tác giải thích, tuyên truyền, phổ biến các quy định mới của BLHS nói chung và những quy định mới về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong áp dụng pháp luật.
Công tác giải thích, hướng dẫn pháp luật có thể được thực hiện bởi nhiều chủ thể với nhiều hình thức khác nhau như:
Các cơ sở giáo dục, đào tạo, nghiên cứu về pháp luật thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị về những vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn thi hành BLHS.
– Xuất bản thành tuyển tập các bản án sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm của
– Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin, mạng Internet vào việc đăng tải các hướng dẫn, giải thích các quy định của BLHS.
Ngày 9/12/2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã ra chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, công tác này có ý nghĩa quan trọng vì khi bất kì người dân nào có sự hiểu biết pháp luật sẽ tăng niềm tin của họ đối với Đảng, với Nhà nước và pháp luật, qua đó làm cơ sở cho các hành vi và hình thành nhân cách công dân, ý thức tuân thủ và tôn trọng pháp luật, không để họ thực hiện các hành vi sai trái, vi phạm pháp luật, tham gia bảo vệ các lợi ích của bản thân, gia đình và xã hội.
Để cho công tác tuyên truyền pháp luật đạt được hiệu quả cần: Tuyên truyền, phổ biến các văn bản liên quan đến quy chế dân chủ ở cơ sở, quy định dân chủ trong các văn bản pháp luật, phổ biến các quyền công dân, quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân trong Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ khen thưởng, biểu dương kịp thời để khuyến khích, động viên tất cả quần chúng nhân dân tham gia phong trào toàn dân đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3. Nâng cao vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật:
– Đối với cơ quan điều tra
Điều tra tội phạm là giai đoạn đầu và rất quan trọng trong quan trọng trong tố tụng hình sự, hoạt động của các Cơ quan điều tra giữ vai trò trong phòng ngừa, phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm, góp phần quan trọng bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Bên cạnh các kết quả đã đạt được trong thời gian qua hoạt động điều tra còn bộc lộ một số bất cập, chất lượng, cụ thể là tiến độ điều tra một số vụ án hình sự chưa đảm bảo, ở một số lĩnh vực xảy ra tội phạm nhưng tỷ lệ phát hiện, khởi tố, điều tra chưa cao, quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và một số chủ thể trong hoạt động điều tra còn vướng mắc, công tác phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm có nơi, có lúc chưa được chủ động.
Để làm tốt công tác của mình theo quy định pháp luật, cơ quan điều tra trước hết cần làm tốt công tác tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác tội phạm. Trên cơ sở tiếp nhận tin báo, tố giác, cơ quan điều tra có thể xác định có dấu hiệu tội phạm hay không để quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Trách nhiệm của cơ quan điều tra trong công tác này là giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, bảo đảm việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm đúng pháp luật, đầy đủ, đảm bảo mọi tội phạm đều được phát hiện, khởi tố, điều tra và xử lý. Hoạt động giải quyết tố giác, tin báo tội phạm của cơ quan điều tra có vị trí, vai trò và ý nghĩa tiên quyết để đảm bảo mọi hành vi phạm tội, người phạm tội đều được phát hiện và xử lý kịp thời, đúng pháp luật. Thực tiễn cho thấy, việc giải quyết công tác tố giác, tin báo tội phạm sẽ quyết định chất lượng giải quyết vụ án và là bước quan trọng để có thể khẳng định có hay không có hành vi tội phạm xảy ra, người nào thực hiện hành vi phạm tội, tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội đó gây ra như thế nào, thông qua hoạt động này để có cơ sở khẳng định việc khởi tố là đúng người, đúng tội và bảo đảm các căn cứ để xử lý tội phạm, bảo đảm cho mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, tránh làm oan, sai và không bỏ lọt tội phạm.
– Đối với Viện kiểm sát
Trước tình hình tội phạm luôn có diễn biến phức tạp, vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các vụ án hình sự có vị trí rất quan trọng, theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát có quyền và trách nhiệm kiểm sát việc khởi tố và điều tra vụ án hình sự ngay từ đầu quá trình điều tra và kiểm sát thường xuyên, liên tục theo quá trình điều tra.
Do nhiều nguyên nhân việc thực hiện quyền và trách nhiệm này còn chưa tốt, do không thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra từ đầu nên công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trở nên thụ động, phụ thuộc vào kết quả điều tra của cơ quan điều tra.
Việc kiểm sát có lúc không kịp thời phát hiện ra các vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra cũng như không chỉ đạo được quá trình điều tra, để xảy ra trường hợp bỏ lọt tội phạm, truy tố không có căn cứ, làm oan người vô tội, hoặc bỏ lọt tội phạm. Vì vậy trong quá trình thực hiện nhiệm vụ Viện kiểm sát cần có nhiều biện pháp đổi mới nghiệp vụ công tác điều tra nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong công tác điều tra các vụ án hình sự.
– Đối với Tòa án nhân dân
Thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân các cấp cho thấy việc áp dụng các quy định của BLHS về tội phạm tham nhũng trong một số vụ án hình sự của Tòa án còn lúng túng, đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội còn chưa chính xác, về hình thức bản án chưa phân tích rõ ràng và chưa thống nhất.
Cần phải nâng cao vai trò của Tòa án trong công tác xét xử các vụ án hình sự, tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng công tác xét xử các vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay. Ngành Tòa án nhân dân cần làm tốt công tác bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ và nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân; tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong toàn ngành; tăng cường phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật cũng như trong quá trình giải quyết vụ án; đồng thời tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp.
4. Đảm bảo năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ tư pháp:
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán giữ vai trò quan trọng trong toàn bộ vụ án, những người này có ảnh hưởng xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án, để tránh việc làm oan sai, không những gây thiệt hại trực tiếp đến người bị kết án mà còn ảnh hưởng tới uy tín của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân cần phải có chiến lược lâu dài, có định hướng cụ thể trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ tư pháp chính quy, đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Để đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, cần kiện toàn đội ngũ cán bộ xét xử thông qua việc để ra các tiêu chuẩn cao đối với chức danh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, thường xuyên tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức cho cán bộ xét xử, ban hành quy chế đạo đức nghề nghiệp đối với cán bộ xét xử, nâng cao chất lượng, cần đào tạo, tuyển dụng, bổ nhiệm để tăng cường số lượng cán bộ xét xử nhằm giảm áp lực công việc, tạo điều kiện cho họ hoàn thành tốt nhiệm vụ.