Một số giải pháp bảo đảm việc thực hiện thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm.
Trước yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, cần tiến hành đồng bộ những giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả việc thực hiện thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm sau đây:
Mục lục bài viết
1. Hoàn thiện quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm:
Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc thực hiện thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng công tác xét xử phúc thẩm. Từ việc phân tích, đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2015 và thực tiễn thực hiện thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm tại
* Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 357 theo hướng bổ sung thẩm quyền sửa phần áp dụng pháp luật, sửa án phí như sau: “Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:
a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp.
b) Áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
c) Giảm hình phạt cho bị cáo;
d) Giảm mức bồi thường thiệt hại nếu người có quyền kháng cáo yêu cầu;
đ) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn;
e) Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo;
g) Sửa phần áp dụng pháp luật; sửa quyết định xử lý vật chứng; sửa án phí”.
Đề xuất này dựa trên lý do: Khoản 1 Điều 357 BLTTHS năm 2015 không quy định căn cứ để sửa phần áp dụng pháp luật, án phí trong trường hợp trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự mà
Theo quan điểm của tác giả, việc sửa án phí cũng tương tự như quyết định xử lý vật chứng của HĐXX phúc thẩm, không phụ thuộc vào việc có hay không có kháng cáo, kháng nghị cũng như hướng kháng cáo, kháng nghị. Nếu quyết định về án phí trong bản án sơ thẩm không đúng hoặc không có căn cứ thì cần phải sửa lại theo đúng quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào việc sửa quyết định về án phí đó có gây bất lợi cho bị cáo hay những người tham gia tố tụng khác hay không bởi quyết định về án phí đúng đắn, chính xác là yêu cầu bắt buộc trong tố tụng hình sự.
Tác giả đề xuất bổ sung thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm “sửa phần áp dụng pháp luật” tại khoản 1 Điều 357 BLTTHS bởi nếu chỉ sửa phần áp dụng pháp luật mà vẫn giữ nguyên các quyết định về hình phạt, biện pháp tư pháp, trách nhiệm dân sự vừa đảm bảo tính đúng đắn, chính xác của bản án cũng như quyền lợi, nghĩa vụ của bị cáo và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan vừa không gây thêm bất lợi cho bị cáo. Do đó, việc đặt thẩm quyền “sửa phần áp dụng pháp luật” tại khoản 1 Điều 357 giúp HĐXX phúc thẩm có thể sửa phần áp dụng pháp luật mà không phụ thuộc vào việc có hay không có kháng cáo, kháng nghị cũng như hướng kháng cáo, kháng nghị.
Mặt khác, nếu pháp luật được áp dụng trong bản án sơ thẩm không phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân thân người phạm tội hoặc có thiếu sót tức là chưa đảm bảo tính đúng pháp luật – một trong hai điều kiện giữ nguyên bản án sơ thẩm. HĐXX phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm chỉ trong trường hợp các quyết định của bản án sơ thẩm có căn cứ và đúng pháp luật. Đồng thời, việc sai lầm hoặc thiếu sót trong áp dụng pháp luật chưa nghiêm trọng đến mức phải hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại và việc hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại sẽ gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án, mất công sức, tốn kém chi phí. Do đó, việc bổ sung như đề xuất của tác giả là cần thiết, tạo cơ sở cho HĐXX phúc thẩm thực hiện thẩm quyền của mình đầy đủ nhất.
* Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 357 BLTTHS năm 2015 theo hướng hiện thực hóa quyền kháng cáo của những chủ thể có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331 BLTTHS năm 2015; bỏ thẩm quyền tăng mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp VKS kháng nghị tăng mức bồi thường thiệt hại và bỏ quy định về giảm mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp chỉ có kháng cáo hoặc kháng nghị tăng mức bồi thường thiệt hại như sau: “Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người có quyền kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể:
a) Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp;
b) (Bo)
c) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn;
d) Không cho bị cáo hưởng án treo.
Nếu có căn cứ thì Hội đồng xét xử vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.
Trường hợp người có quyền kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể tăng mức bồi thường thiệt hại”.
Đề xuất này dựa trên các lý do sau:
– Khoản 2 Điều 357 BLTTHS năm 2015 chưa đảm bảo quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng khác: người đại diện của bị hại; nguyên đơn dân sự; người đại diện của nguyên đơn dân sự; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định tại các Điều 62, 63, 84, 331 BLTTHS năm 2015. Đây là một thiếu sót về mặt nội dung và kỹ thuật lập pháp cần phải khắc phục. Việc đề xuất như trên để hiện thực hóa quyền kháng cáo của những chủ thể này trên thực tế, đảm bảo sự thống nhất trong các quy định của BLTTHS.
– Khoản 2 Điều 357 BLTTHS năm 2015 cho phép HĐXX phúc thẩm giảm mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp chỉ có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng mức bồi thường thiệt hại là chưa hợp lý, không phù hợp với nguyên tắc không làm xấu hơn tình trạng của chủ thể kháng cáo nếu không có kháng cáo hoặc kháng nghị khác theo hướng không có lợi cho họ, gây thiệt hại cho chủ thể kháng cáo.
– Khoản 2 Điều 357 BLTTHS năm 2015 cho phép HĐXX phúc thẩm tăng mức bồi thường thiệt hại trên cơ sở kháng nghị của VKS là không hợp lý, vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận quy định tại khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015, xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người được bồi thường. VKS chỉ có quyền kháng nghị phần bản án sơ thẩm về bồi thường thiệt hại nếu có vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Tuy nhiên đây không phải là căn cứ sửa bản án sơ thẩm mà là căn cứ hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại. Vì vậy, cần hủy bỏ thẩm quyền tăng mức bồi thường thiệt hại dựa trên kháng nghị của VKS.
* Thứ ba, sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 357 BLTTHS năm 2015 theo hướng bỏ quy thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm trong việc giảm mức bồi thường thiệt hại cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị như sau: “Trường hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại các điểm a, b, c, đ, e, g khoản 1 Điều này cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị”. Đề xuất này dựa trên lý do như sau: Khoản 3 Điều 357 BLTTHS năm 2015 cho phép HĐXX phúc thẩm vẫn có thể giảm mức bồi thường thiệt hại cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Quy định này là không hợp lý, vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận quy định tại khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015, xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người được bồi thường, vi phạm nguyên tắc không làm xấu hơn tình trạng của bị hại, nguyên đơn dân sự nếu không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng không có lợi cho họ.
* Thứ tư, sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm a khoản 1 Điều 358 BLTTHS năm 2015 như sau: “Có căn cứ cho rằng việc điều tra, truy tố bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm trong trường hợp không thể sửa bản án sơ thẩm theo hướng áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật này”. Đề xuất dựa trên những lý do như sau:
– Điểm a khoản 1 Điều 358 BLTTHS năm 2015 quy định một trong các trường hợp HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại là “có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội”. Việc sử dụng từ “cấp sơ thẩm” là chưa chính xác bởi chỉ những trường hợp việc bỏ lọt tội phạm, người phạm tội trong giai đoạn điều tra, truy tố có trách nhiệm của CQĐT, VKS mới là căn cứ để HĐXX phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại. Nếu bản chất việc bỏ lọt tội phạm, người phạm tội không xuất phát từ giai đoạn điều tra, truy tố mà do trong giai đoạn xét xử sơ thẩm thì không hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.
– BLTTHS năm 2015 không quy định cụ thể căn cứ, điều kiện sửa bản án theo hướng áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nặng hơn khi có kháng nghị của VKS hoặc kháng cáo của bị hại yêu cầu áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nặng hơn (điểm a khoản 2 Điều 357) cũng như căn cứ, điều kiện hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong trường hợp để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm (điểm a khoản 1 Điều 358). Điều này dẫn đến việc nhận thức, áp dụng pháp luật không thống nhất. Đề xuất như trên nhằm khắc phục vướng mắc, đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật trong trường hợp có kháng nghị của VKS hoặc kháng cáo của bị hại yêu cầu áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nặng hơn.
* Thứ năm, sửa đổi quy định tại điểm b khoản 1 Điều 358 BLTTHS năm 2015 như sau: “Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ các vấn đề quy định tại Điều 85 hoặc Điều 416 của Bộ luật này mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được”. Đề xuất này dựa trên lí do như sau: BLTTHS năm 2015 không quy định và cũng không có văn bản hướng dẫn trực tiếp, cụ thể như thế nào được coi là “việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ”. Mặc dù khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số 02/2017 hướng dẫn các trường hợp thiếu chứng cứ mà VKS, Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tuy nhiên đây là văn bản hướng dẫn một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ điều tra bổ sung, không phải hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. Do đó, việc vận dụng thông tư này chỉ là phương thức linh hoạt trong áp dụng tương tự pháp luật, chưa có văn bản hướng dẫn trực tiếp, cần sửa đổi như đề xuất trên để dễ áp dụng trên thực tế.
* Thứ sáu, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 359 BLTTHS năm 2015 về hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án như sau: “Khi có một trong các căn cứ quy định tại các khoản 3, 4, 5, 6, 7 và 8 Điều 157 của Bộ luật này thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án”.
Đề xuất này dựa trên lý do như sau: Điều 359 BLTTHS năm 2015 không quy định việc HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án theo căn cứ tại khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015, tức là trong trường hợp người có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đã yêu cầu mà lại rút đơn yêu cầu tại phiên tòa phúc thẩm. Đây là khiếm khuyết của BLTTHS năm 2015. Do đó, trường hợp tại phiên tòa phúc thẩm, đối với vụ án thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu nhưng người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì HĐXX phúc thẩm không có căn cứ để huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Đề xuất như trên sẽ giúp tiết kiệm thời gian và chi phí tố tụng bởi khi người có quyền yêu cầu khởi tố rút đơn yêu cầu tại phiên tòa phúc thẩm thì HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án, làm cho quy trình tố tụng của vụ án được chấm dứt ngay lập tức.
* Thứ bảy, cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể quy định tại khoản 1 Điều 254 BLTTHS năm 2015. Bởi hiện chưa có hướng dẫn cụ thể cách hiểu thế nào là “vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp”. Việc nhận thức tính chất nghiêm trọng, phức tạp của từng vụ án phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của từng Thẩm phán, dẫn tới tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất, Tòa án cấp sơ thẩm lúng túng khi xác định thành phần HĐXX sơ thẩm và HĐXX phúc thẩm không có cơ sở pháp lý vững chắc để quyết định hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại trong trường hợp này. Tác giả đề xuất hướng dẫn như sau: “Vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp là vụ án có nhiều bị cáo, bị hại, đương sự; vụ án xâm phạm an ninh quốc gia; vụ án thuộc trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực cần tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn; vụ án mà người phạm tội là nhân sĩ trí thức hoặc các chức sắc tôn giáo, người có uy tín cao thuộc các dân tộc ít người; vụ án được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, có nhiều quan điểm trái chiều”.
Việc kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTTHS về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm theo hướng cụ thể, đầy đủ và toàn diện hơn sẽ đảm bảo sự thống nhất với các quy định khác của BLTTHS cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng trong thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả công tác xét xử phúc thẩm.
2. Các giải pháp khác:
Trước hết, cần quan tâm tuyển chọn, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng những người có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ làm việc trong ngành Tòa án đáp ứng yêu cầu thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao cũng như yêu cầu cải cách tư pháp. Xây dựng đội ngũ Thẩm phán thực sự là những người có trí tuệ, có phẩm chất đạo đức, có tâm trong sáng, bản lĩnh, không bị dao động trước các giá trị vật chất hay bị dư luận xã hội tác động, luôn tu dưỡng, rèn luyện khắc phục những khuyết điểm để đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với công tác tư pháp trong tình hình mới.
Thứ hai, cần rà soát, đánh giá đội ngũ công chức, Thẩm phán để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng phù hợp, từ đó nâng cao hơn hiệu quả xét xử.
Cần tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ cho công chức làm công tác xét xử; thường xuyên cập nhật thông tin, các văn bản mới về hướng dẫn đường lối xét xử của TAND tối cao; tham khảo đường lối giải quyết vụ án của TAND cấp trên…để nâng cao năng lực công tác chuyên môn cho đội ngũ Thẩm phán, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các vụ án bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán. Bên cạnh đó, cần có chính sách khuyến khích công chức, Thẩm phán đi học nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ công chức, Thẩm phán.
Thứ ba, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện những quy định về tiêu chuẩn đạo đức, lối sống của công chức, Thẩm phán. Bên cạnh việc không ngừng trau dồi, bổ sung kiến thức, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp, Thẩm phán phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, lương tâm và bản lĩnh nghề nghiệp. Khi quyết định xử lý các vấn đề thuộc vụ án, Thẩm phán phải và chỉ dựa trên cơ sở chứng cứ khách quan, liên quan, hợp pháp và các quy định của pháp luật, không bị chi phối bởi bất kỳ tác động chủ quan nào. Đảng uỷ, chi bộ, người đứng đầu đơn vị kiên trì chỉ đạo để đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh luôn trở thành công việc thường xuyên, quan trọng, gắn với thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đơn vị; lấy kết quả thực hiện chuẩn mực đạo đức để đánh giá đảng viên và tổ chức đảng. Đồng thời, coi trọng công tác đôn đốc, kiểm tra, giám sát, chỉ đạo các chi bộ bám sát kế hoạch, chương trình công tác hàng năm, triển khai sinh hoạt chuyên đề hàng năm, đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chuyên đề thiết thực, hiệu quả.
Thứ ba, cần tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm từ thực tiễn xét xử bởi tổng kết rút kinh nghiệm trong hoạt động xét xử là một nhiệm vụ quan trọng của hệ thống TAND. Qua đó, chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót, bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác xét xử nói chung và công tác xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự nói riêng; đồng thời kiến nghị cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn, giải đáp kịp thời những vướng mắc, phát sinh trong thực tiễn xét xử.
Thứ tư, tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành để lãnh đạo TAND tỉnh theo dõi, kiểm tra tiến độ giải quyết án để có chỉ đạo kịp thời, tránh tình trạng tồn đọng án, quá hạn. Yêu cầu mỗi Thẩm phán phải lập kế hoạch giải quyết từng vụ án và thường xuyên báo cáo tiến độ với lãnh đạo đơn vị. Lãnh đạo Tòa án căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ phải giải quyết đối với từng loại án và năng lực, trình độ chuyên môn của từng Thẩm phán để tiến hành phân công, bố trí công việc cho phù hợp nhằm nâng cao hơn nữa việc chuyên môn hóa trong xét xử.
Thứ năm, cần tạo điều kiện bảo đảm về kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng làm việc, phòng xét xử cho đội ngũ công chức, Thẩm phán có đủ các điều kiện để thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới. Cơ sở vật chất, kỹ thuật là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm cho hoạt động xét xử nói chung và phúc thẩm các vụ án hình sự nói riêng. Cần đầu tư xây dựng, cải tạo trụ sở, trang bị đầy đủ các thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác xét xử.
Thứ sáu, cần cải cách chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ công chức ngành Tòa án nói chung, Thẩm phán nói riêng. Hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Thẩm phán là hoạt động đặc thù, đòi hỏi cường độ lao động cao, sự đầu tư về trí tuệ lớn, trách nhiệm pháp lý nặng nề, nếu để xảy ra oan, sai phải bồi thường. Thực hiện tốt chính sách đãi ngộ về tiền lương, phụ cấp sẽ tạo điều kiện giúp đội ngũ công chức, Thẩm phán giảm bớt khó khăn, yên tâm nhiệt tình công tác và giữ được sự liêm chính. Theo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, để giữ sự liêm chính hiệu quả nhất thì cùng với sự tu dưỡng, rèn luyện cá nhân, Nhà nước phải đảm bảo thu nhập cho họ ít nhất ở mức trung bình. Nếu Thẩm phán được đãi ngộ tương xứng cùng với một quy trình tuyển chọn nghiêm ngặt về đức và tài thì công lý sẽ được đảm bảo, giữ vững được niềm tin của nhân dân. “Các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc về độc lập tư pháp đã quy định phải đảm bảo mức lương thỏa đáng cho Thẩm phán để họ có thể đưa ra một phán quyết công tâm, không thiên vị, không tư lợi”. Bên cạnh đó, cần quan tâm công tác thi đua khen thưởng, có chế độ khen thưởng, động viên kịp thời cả về vật chất và tinh thần đối với những công chức, Thẩm phán có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác.