Như chúng ta đã biết trong định giá không chỉ giá trị tài sản mà còn các yếu tố liên quan tới giá trị để tính thuế trong định giá cũng là yếu tố rất quan trọng để xác định thuế phải nộp theo quy định của pháp luật.
Mục lục bài viết
1. Giá trị để tính thuế trong định giá là gì?
Giá trị để tính thuế hay giá trị tính thuế trong tiếng Anh là Taxable value.
Theo Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 03 Giá trị phi thị trường làm cơ sở cho thẩm định giá kí hiệu: TĐGVN 03 Ban hành kèm theo Thông tư số 158/2014/TT-BTC ngày 27 tháng 10 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn:
“Giá trị để tính thuế là giá trị dựa trên các qui định của luật pháp liên quan đến việc đánh giá giá trị tài sản để tính khoản thuế phải nộp.”
Giá trị để tính thuế là số tiền thể hiện giá trị tài sản được qui định trong các văn bản pháp lí, làm căn cứ để ra số tiền thuế phải nộp cho nhà nước.
Ví dụ như giá đất đai do Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố qui định để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, tính mức bồi thường khi thu hồi đất; Nhà nước qui định giá tối thiểu của tài sản để thu thuế trước bạ; trị giá hải quan để tính thuế nhập khẩu…
2. Đặc điểm và liên hệ thực tiễn:
IVSC cho rằng: Ở nhiều quốc gia, một số văn bản pháp qui trích dẫn giá trị thị trường là cơ sở của việc tính thuế. Tuy nhiên, các phương pháp cụ thể được sử dụng để ước tính giá trị tài sản có thể dẫn đến kết quả chênh lệch so với giá trị thị trường theo Tiêu chuẩn thẩm định 1. Do đó, nếu coi giá trị tính thuế là giá trị thị trường như định nghĩa tại Tiêu chuẩn thẩm định 1 thì phải có sự giải thích thật rõ ràng.
Trên thực tế, để xác định giá tính thuế, người ta thường dựa vào giá trị thị trường. Song giá trị để tính thuế thường được nhà nước sử dụng trong một thời gian dài, trong khi giá thị trường luôn biến động. Vì vậy, không thể coi giá trị tính thuế là giá trị thị trường.
Giá trị thị trường trong định giá là số tiền trao đổi ước tính về một tài sản vào thời điểm thẩm định giá giữa một bên là người bán sẵn sàng bán với một bên là người mua sẵn sàng mua, sau một quá trình tiếp thị công khai mà tại đó các bên cùng hành động một cách khách quan, hiểu biết và không bị ép buộc.
3. Giá trị phi thị trường trong định giá tài sản:
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Thông tư số 158/2014/TT-BTC ngày 27 tháng 10 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định cụ thể như sau:
” 2. Giá trị phi thị trường là mức giá ước tính của một tài sản tại thời điểm, địa điểm thẩm định giá, không phản ánh giá trị thị trường mà căn cứ vào đặc điểm kinh tế – kỹ thuật, chức năng, công dụng của tài sản, những lợi ích mà tài sản mang lại trong quá trình sử dụng, giá trị đối với một số người mua đặc biệt, giá trị khi giao dịch trong điều kiện hạn chế, giá trị đối với một số mục đích thẩm định giá đặc biệt và các giá trị không phản ánh giá trị thị trường khác. Giá trị phi thị trường bao gồm: giá trị tài sản bắt buộc phải bán, giá trị đặc biệt, giá trị đầu tư, giá trị để tính thuế hoặc các giá trị khác, cụ thể:
a) Giá trị tài sản bắt buộc phải bán là tổng số tiền thu về từ bán tài sản trong điều kiện thời gian giao dịch để bán tài sản quá ngắn so với thời gian bình thường cần có để thực hiện giao dịch mua bán theo giá trị thị trường, người bán chưa sẵn sàng bán hoặc bán không tự nguyện. Giá cả trong những cuộc mua bán tài sản như vậy gọi là giá trị tài sản bắt buộc phải bán, không phản ánh giá trị thị trường.
b) Giá trị đặc biệt là giá trị của tài sản có những đặc tính đặc biệt chỉ thu hút sự quan tâm của những người mua đặc biệt hoặc người sử dụng đặc biệt. Giá trị đặc biệt có thể được hình thành do vị trí, tính chất, đặc điểm kinh tế – kỹ thuật, yếu tố pháp lý và các yếu tố đặc biệt khác của tài sản. Giá trị đặc biệt bao gồm: Giá trị tài sản đang trong quá trình sử dụng, giá trị tài sản có thị trường hạn chế, giá trị tài sản chuyên dùng và giá trị đặc biệt khác.
Giá trị tài sản đang trong quá trình sử dụng là giá trị phi thị trường được xem xét từ giác độ một người sử dụng riêng biệt tài sản vào một mục đích riêng biệt, do đó không liên quan đến thị trường. Khi tiến hành thẩm định giá loại tài sản này, thẩm định viên tập trung chủ yếu vào khía cạnh tham gia, đóng góp của tài sản vào hoạt động của một dây chuyền sản xuất, một doanh nghiệp, hoặc một tài sản khác không xét đến khía cạnh giá trị sử dụng tốt nhất, tối ưu của tài sản hoặc số tiền có thể có từ việc bán tài sản đó trên thị trường.
Giá trị tài sản có thị trường hạn chế là giá trị của tài sản do tính đơn chiếc, hoặc do những điều kiện của thị trường, hoặc do những nhân tố khác tác động làm cho tài sản này ít có khách hàng tìm mua, tại một thời điểm nào đó. Đặc điểm quan trọng cần phân biệt của tài sản này không phải là không có khả năng bán được trên thị trường công khai mà để bán được đòi hỏi một quá trình tiếp thị lâu dài hơn, tốn nhiều chi phí và thời gian hơn so với những tài sản khác.
c) Giá trị đầu tư là giá trị của một tài sản đối với nhà đầu tư theo những mục tiêu đầu tư đã xác định.
Giá trị đầu tư là khái niệm có tính chủ quan liên quan đến những tài sản cụ thể đối với một nhà đầu tư riêng biệt với những mục tiêu và/hoặc tiêu chí đầu tư xác định. Sự khác biệt giữa giá trị đầu tư và giá trị thị trường của một tài sản là động lực để nhà đầu tư tham gia vào thị trường.
d) Giá trị để tính thuế là giá trị dựa trên các quy định của luật pháp liên quan đến việc đánh giá giá trị tài sản để tính khoản thuế phải nộp.”
Như vậy căn cứ theo quy định này ta thấy rằng đối với định giá thì để tính thuế trong định giá chúng ta cần lưu ý về loại giá trị phi thị trường này
Giá trị thị trường là mức giá trị được thị trường thừa nhận. Giá trị thị trường đôi khi được gọi là giá trị công bằng, là một tiêu chuẩn cơ bảm của giá trị. Giá trị thị trường phản ánh tính hiệu quả về mặt kinh tế – theo cơ chế giá cả thị trường: hàng hóa sẽ được chuyển đến cho người có thể trả nhiều tiền nhất, hàng hóa sẽ được sản xuất bởi người có chi phí thấp nhất.
Giá trị thị trường là căn cứ chủ yếu trong hoạt động thẩm định giá đối với hầu hết các loại tài sản. Cơ sở của việc xây dựng khái niệm giá trị thị trường, hay cơ sở của việc ước tính giá trị thị trường đối với một tài sản nào đó, được dựa trên một thực tế là nó có khả năng trao đổi, mua bán một cách phổ biến trên thị trường, được thực tiễn kiểm chứng khách quan. Tuy nhiên trên thực tế, có nhiều loại tài sản cần được thẩm định giá nhưng chúng rất ít khi được mua bán, thậm chí không có thị trường đối với chúng, ví dụ như: công viên, nhà ga, nhà thờ, bệnh viện, trường học… Để đánh giá giá trị đối với những loại tài sản này, người ta dựa vào những yếu tố phi thị trường chi phối đến giá trị tài sản. Giá trị được ước tính như vậy gọi là giá trị phi thị trường.
Nói một cách đầy đủ, giá trị phi thị trường là số tiền ước tính của một tài sản dựa trên việc đánh giá yếu tố chủ quan của giá trị nhiều hơn là dựa vào khả năng có thể mua bán tài sản trên thị trường.
Trên thực tế có rất nhiều khái niệm giá trị khác nhau. Nhưng đặc điểm chung và phổ biến của hầu hết các khái niệm này là ở chỗ chúng đều thuộc vào dạng khái niệm giá trị phi thị trường.
Cơ sở của việc xây dựng khái niệm giá trị phi thị trường cũng xuất phát trực tiếp từ khái niệm giá trị tài sản: là biểu hiện bằng tiền về những lợi ích mà tài sản mang lại cho chủ thể nào đó tại một thời điểm nhất định. Tuy nhiên, những lợi ích mà tài sản mang lại được các chủ thể đánh giá rất khác nhau. Nó tùy thuộc vào công dụng hay tính hữu ích của tài sản đối với mỗi người, tùy thuộc vào bối cảnh sử dụng và giao dịch cụ thể của từng tài sản. Đó là cơ sở của việc ước tính giá trị tài sản đối với mỗi người, lý do dẫn đến sự phong phú của cá khái niệm giá trị.