Đưa tiền nhờ xin việc bị xử lý như thế nào? Làm thế nào để lấy lại tiền nhờ xin việc.
Đưa tiền nhờ xin việc bị xử lý như thế nào? Làm thế nào để lấy lại tiền nhờ xin việc.
Tóm tắt câu hỏi:
Thưa luật sư, cháu học mầm non ra trường, cháu nhờ một chị xin việc, chị ấy là giáo viên. Lúc đầu chị ta bảo gia đình cháu cho chị ta 60 triệu, khi nào được việc thì thêm 60 triệu sau. Một thời gian sau chị ta đòi gia đình cháu thêm 60 triệu sẽ được việc luôn. Gia đình cháu viết giấy biên bản nhận tiền với chị ta. Việc của cháu không được, gia đình cháu đòi tiền thì chị ta bảo đợi. Gia đình cháu đòi quá thì chị ta trả 40 triệu và viết giấy "vay nợ" với gia đình cháu, 80 triệu còn lại hẹn 2 tháng sau sẽ trả số còn lại. Bây giờ chị ta không trả. Thưa luật sư cháu phải làm sao để đòi lại tiền? Cháu nghe nói xin việc viết giấy vay nợ là vi phạm pháp luật. Trong trường hợp cháu thì sao? Cháu rất mong luật sư giúp cháu?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009
2. Nội dung tư vấn:
Theo thông tin bạn cung cấp, bạn giao tiền cho người giáo viên để nhờ xin việc. Tuy nhiên sau đó vì không xin được việc nên gia đình bạn đã đòi lại tiền nhiều lần và có kí với người giáo viên đó hợp đồng vay nợ.
Nếu nội dung giấy vay tiền có ghi rõ là nhận tiền để chạy việc đây là hành vi cấm của pháp luật thì giao dịch này sẽ bị tuyên là vô hiệu theo quy định tại Điều 128 Bộ luật dân sự 2005 về giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội như sau:
"Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng."
Điều 137 Bộ luật dân sự 2005 quy định hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
– Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
– Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Như vậy, giao dịch mà bạn đã kí kết với người giáo viên kia là giao dịch trái với quy định của pháp luât thì sẽ bị vô hiệu, các bên phải trả lại cho nhau những gì đã nhận, khôi phục lại tình trạng ban đầu. Bạn có thể khởi kiện ra tòa để yêu cầu người kia trả lại số tiền đã giao nhận cho bạn. Tuy nhiên bạn cũng phải cung cấp đầy đủ những chứng cứ chứng minh được giữa bạn và người đó có
Nếu người giáo viên kia có hành vi bỏ trốn, không trả nợ cho gia đình bạn thì người này có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 như sau:
"1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản…"
>>> Luật sư tư vấn pháp luật dân sự qua tổng đài: 1900.6568
Tuy nhiên, việc bạn đưa tiền để nhờ chạy việc thì bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội đưa hối lộ theo quy định tại Điều 289 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009:
"1. Người nào đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ sáu năm đến mười ba năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
c) Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ;
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
e ) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm:
a) Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, hoặc tù chung thân
a) Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ.
6. Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
Đối với người nhận tiền của bạn để chạy việc cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội nhận hối lộ theo Điều 279 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi 2009 hoặc Tội làm môi giới hối lộ theo Điều 290 Bộ luật hình sự 1990 sửa đổi bổ sung 2009.