Đưa đất vào sử dụng là gì? Xử lý chậm đưa đất vào sử dụng như thế nào? Dưới đây là bài phân tích làm rõ vấn đề này.
Mục lục bài viết
1. Thế nào là đưa đất vào sử dụng?
Theo quy định tại Điều 58
Khi xác định được mục đích sử dụng đất của các loại đất chưa sử dụng trên, cơ quan chức năng có thẩm quyền sẽ tiến hành đưa đất vào sử dụng.
Về cơ bản, khi thấy đất chưa sử dụng đảm bảo đầy đủ các yếu tố, điều kiện về việc sử dụng, thấy được nguồn lợi sử dụng mà loại đất này mang lại, cơ quan chức năng có thẩm quyền sẽ tiến hành đưa các loại đất này vào sử dụng sao cho phù hợp với các quy định của Nhà nước và pháp luật. Hay nói cách khác, đưa đất vào sử dụng là cơ quan chức năng có thẩm quyền đưa đất chưa sử dụng vào sử dụng, nhằm mục đích sử dụng nguồn lợi từ đất, tránh gây lãng phí đất.
2. Hậu quả có việc chậm đưa đất vào sử dụng:
Hiện nay, việc chậm đưa đất vào sử dụng đang diễn ra khá phổ biến tại nước ta. Có thể hiểu, chậm đưa đất vào sử dụng là việc cơ quan chức năng có thẩm quyền thấy được rằng đất đã đảm bảo đầy đủ các điều kiện để đưa vào sử dụng, song vì lý do nào đó mà không đưa đất vào sử dụng, hoặc đưa vào sử dụng không kịp thời.
Việc chậm đưa đất vào sử dụng đem đến những hậu quả nhất định:
– Thứ nhất, nó ảnh hưởng đến tiến độ dự án, tiến độ đầu tư công trình được Nhà nước cấp phép.
– Thứ hai, gây ra tình trạng lãng phí nguồn đất. Nhà nước chỉ đưa đất vào sử dụng khi thấy đất đó đủ điều kiện. Vậy nên, việc chậm đưa đất vào sử dụng sẽ ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến giá trị sử dụng của nguồn đất. Chậm đưa đất vào sử dụng sẽ gây ra lãng phí nguồn đất trong một khoảng thời gian nhất định.
– Thứ ba, chậm đưa đất vào sử dụng ảnh hưởng đến công tác quản lý Nhà nước về đất đai. Trong một số trường hợp, nó còn gây mất trật tự an toàn xã hội.
– Thứ tư, chậm đưa đất vào sử dụng sẽ đưa ra những tác động tiêu cực về cơ cấu đất đai, dự án đầu tư, quy hoạch và hoạt động quản lý Nhà nước của cơ quan Nhà nước.
3. Xử lý chậm đưa đất vào sử dụng:
– Khoản 12 điều 2
+ Nếu đến thời điểm kiểm tra, thanh tra mới xác định hành vi không sử dụng đất đã quá 12 tháng liên tục hoặc đã chậm tiến độ sử dụng đất quá 24 tháng thì thời điểm để tính gia hạn sử dụng đất như sau: Thời điểm để tính gia hạn sử dụng đất 24 tháng được tính từ ngày cơ quan có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất quyết định gia hạn. Như vậy, trong trường hợp cơ quan Nhà nước đã phê duyệt việc đưa đất vào sử dụng, nhưng cá nhân, tổ chức chịu trách nhiệm thi hành chậm trễ trong hoạt động này, thì nếu quá 12 tháng (hoặc chậm tiến độ 24 tháng), thì thời điểm để tính gia hạn sử dụng đất 24 tháng được tính từ ngày cơ quan có thẩm quyền giao đất.
Khi tiến hành kiểm tra, xác định được hành vi không sử dụng đất đã quá hạn, cơ quan chịu trách nhiệm sẽ phải thực hiện thông báo với cơ quan chức năng có thẩm quyền. Lúc này, cơ quan chức năng năng có thẩm quyền sẽ tiến hành gia hạn tiến độ. Quyết định gia hạn tiến độ sử dụng đất của cơ quan có thẩm quyền được ban hành trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả kiểm tra hoặc kết luận thanh tra nếu người sử dụng đất có văn bản đề nghị;
+ Trong trường hợp người sử dụng đất không sử dụng đất đã quá 12 tháng hoặc đã chậm tiến độ sử dụng đất quá 24 tháng có nhu cầu gia hạn tiến độ đưa đất vào sử dụng phải có văn bản đề nghị gửi Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất xem xét quyết, định gia hạn.
+ Trong trường hợp sau 15 ngày kể từ ngày cơ quan nhà nước có văn bản xác định hành vi vi phạm mà người sử dụng đất không có văn bản đề nghị được gia hạn thì Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất quyết định thu hồi đất theo quy định;
+ Bộ Tài chính quy định cụ thể việc xác định tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp trong 24 tháng được gia hạn tiến độ sử dụng đất. Theo đó, đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa phải đưa đất vào sử dụng; trường hợp không đưa đất vào sử dụng thì chủ đầu tư được gia hạn sử dụng 24 tháng và phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này; hết thời hạn được gia hạn mà chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp do bất khả kháng.
Đồng thời, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện các hoạt động cụ thể như sau: tổ chức rà soát, xử lý và công bố công khai trên trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh các dự án đầu tư không đưa đất vào sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc chậm tiến độ sử dụng đất 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư. Đồng thời, các dự án được gia hạn; các dự án chậm tiến độ sử dụng đất vì lý do bất khả kháng cũng được công bố công khai trên trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Đồng thời, các dự án đầu tư chậm đưa đất vào sử dụng cũng được cơ quan chức năng có thẩm quyền cung cấp thông tin để công khai trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Tổng cục Quản lý đất đai.
– Khoản 1 Điều 10 Nghị định 35/2017/NĐ-CP quy định về việc xử lý nghĩa vụ tài chính đối với trường hợp chậm đưa đất vào sử dụng như sau:
+ Trong trường hợp được Nhà nước giao đất, cho thuê đất trong Khu kinh tế nhưng cá nhân, tổ chức chịu trách nhiệm liên quan không đưa đất vào sử dụng hoặc chậm tiến độ sử dụng đất so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư thì các đối tượng này phải nộp cho Nhà nước khoản tiền bằng với mức thu tiền thuê đất hàng năm đối với thời gian chậm tiến độ.
Tức, cá nhân, tổ chức chậm đưa đất vào sử dụng trong trường hợp Nhà nước giao đất, cho thuê đất thì phải nộp cho Nhà nước khoản tiền bằng với mức thu tiền thuê đất hàng năm đối với thời gian chậm tiến độ.
+ Đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất, cá nhân, tổ chức chậm đưa đất vào sử dụng thì khoản tiền phải nộp cho Nhà nước được tính bằng với tiền thuê đất hàng năm cho khoảng thời gian từ khi được Nhà nước cho thuê đất đến thời điểm chính thức có quyết định thu hồi đất (sau khi trừ đi thời gian xây dựng cơ bản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định khi được cho thuê đất).
Về cơ bản, thời gian xây dựng cơ bản được trừ tối đa không quá 03 năm đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 và không quá 02 năm đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2014 trở về sau.
Như vậy, theo quy định tại điều luật này, khi chậm đưa đất vào sử dụng, cá nhân, tổ chức sẽ phải chịu trách nhiệm nộp phạt hành chính.
4. Các trường hợp bất khả kháng ảnh hưởng đến tiến độ sử dụng đất của dự án đầu tư:
Đưa đất vào sử dụng khi đã có quyết định của cơ quan chức năng có thẩm quyền là nhiệm vụ mang tính bắt buộc mà các cá nhân, tổ chức phải chịu trách nhiệm thực hiện. Nếu không thực hiện, sẽ buộc phải gia hạn thêm theo quy định của pháp luật.
Như đã phân tích, việc chậm đưa đất vào sử dụng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho công tắc quản lý và thực hiện đất đai của cơ quan chức năng có thẩm quyền. Vậy nên, Nhà nước luôn đưa ra những biện pháp điều chỉnh, xử lý các hoạt động chậm tiến độ đưa đất vào sử dụng này. Việc chậm đưa đất vào sử dụng thường xuất phát từ những nguyên nhân mang tính chất chủ quan của cá nhân, tổ chức chịu trách nhiệm liên quan.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tiến độ sử dụng đất của dự án đầu tư còn bị ảnh hưởng, bị chậm trong một số trường hợp bất khả kháng. Cụ thể, điểm i, khoản 1 Điều 64
– Do ảnh hưởng trực tiếp của thiên tai, thảm họa môi trường;
– Do ảnh hưởng trực tiếp của hỏa hoạn, dịch bệnh;
– Do ảnh hưởng trực tiếp của chiến tranh;
– Các trường hợp bất khả kháng khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Văn bản pháp luật sử dụng trong bài viết: Nghị định số 43/2014/NĐ-CP; Nghị định 01/2017/NĐ-CP; Nghị định 35/2017/NĐ-CP; Luật đất đai 2013.