Trong lĩnh vực tài chính, đòn bẩy là kết quả của việc sử dụng vốn vay làm nguồn tài trợ khi đầu tư để mở rộng cơ sở tài sản của công ty và tạo ra lợi nhuận trên vốn rủi ro. Nên sử dụng đòn bẩy bao nhiêu là phù hợp?
Mục lục bài viết
1. Đòn bẩy là gì?
Đòn bẩy là kết quả của việc sử dụng vốn vay làm nguồn tài trợ khi đầu tư để mở rộng cơ sở tài sản của công ty và tạo ra lợi nhuận trên vốn rủi ro. Đòn bẩy là một chiến lược đầu tư sử dụng tiền đi vay – cụ thể là sử dụng các công cụ tài chính khác nhau hoặc vốn vay – để tăng lợi tức tiềm năng của một khoản đầu tư.
Đòn bẩy cũng có thể là số nợ mà một công ty sử dụng để tài trợ cho tài sản. Đòn bẩy đề cập đến việc sử dụng nợ (vốn vay) để tăng lợi nhuận từ một khoản đầu tư hoặc dự án. Các nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy để nhân sức mua của họ trên thị trường. Các công ty sử dụng đòn bẩy để tài trợ cho tài sản của họ – thay vì phát hành cổ phiếu để huy động vốn, các công ty có thể sử dụng nợ để đầu tư vào hoạt động kinh doanh nhằm tăng giá trị của cổ đông.
Đòn bẩy là việc sử dụng nợ (vốn vay) để thực hiện một đầu tư hoặc dự án. Kết quả là nhân lợi nhuận tiềm năng từ một dự án. Đồng thời, đòn bẩy cũng sẽ nhân lên rủi ro giảm giá tiềm ẩn trong trường hợp khoản đầu tư không thành công. Khi người ta đề cập đến một công ty, tài sản hoặc khoản đầu tư là “có đòn bẩy cao”, điều đó có nghĩa là khoản mục đó có nhiều nợ hơn vốn chủ sở hữu. Khái niệm đòn bẩy được sử dụng bởi cả nhà đầu tư và công ty. Các nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy để tăng đáng kể lợi nhuận có thể được cung cấp cho một khoản đầu tư. Họ thúc đẩy các khoản đầu tư của mình bằng cách sử dụng các công cụ khác nhau, bao gồm quyền chọn, hợp đồng tương lai và tài khoản ký quỹ.
Các công ty có thể sử dụng đòn bẩy để tài trợ cho tài sản của họ. Nói cách khác, thay vì phát hành cổ phiếu để huy động vốn, các công ty có thể sử dụng tài trợ bằng nợ để đầu tư vào hoạt động kinh doanh nhằm tăng giá trị của cổ đông. Các nhà đầu tư không cảm thấy thoải mái khi sử dụng đòn bẩy trực tiếp có nhiều cách khác nhau để tiếp cận đòn bẩy gián tiếp. Họ có thể đầu tư vào các công ty sử dụng đòn bẩy trong quá trình kinh doanh bình thường của họ để cấp vốn hoặc mở rộng hoạt động – mà không làm tăng chi phí của họ. Đòn bẩy khuếch đại lợi nhuận có thể có, giống như đòn bẩy có thể được sử dụng để khuếch đại sức mạnh của một người khi di chuyển một vật nặng.
2. Nên sử dụng đòn bẩy bao nhiêu là phù hợp?
Trong khi đòn bẩy làm tăng lợi nhuận khi lợi nhuận từ tài sản nhiều hơn bù đắp chi phí đi vay, đòn bẩy cũng có thể làm tăng thiệt hại. Một công ty vay quá nhiều tiền có thể bị phá sản hoặc vỡ nợ trong thời kỳ kinh doanh suy thoái, trong khi một công ty ít đòn bẩy hơn có thể tồn tại. Nhà đầu tư mua cổ phiếu với tỷ lệ ký quỹ 50% sẽ mất 40% nếu cổ phiếu giảm giá 20%; cũng trong trường hợp này, đối tượng liên quan có thể không thể hoàn trả tổng số lỗ đáng kể đã phát sinh. Rủi ro có thể phụ thuộc vào sự biến động giá trị của tài sản đảm bảo. Các nhà môi giới có thể yêu cầu thêm tiền khi giá trị chứng khoán nắm giữ giảm. Các ngân hàng có thể từ chối gia hạn các khoản thế chấp khi giá trị của bất động sản giảm xuống dưới mức nợ gốc. Ngay cả khi dòng tiền và lợi nhuận đủ để duy trì chi phí đi vay liên tục, các khoản vay có thể được gọi vào.
Thông qua phân tích
Phân tích cơ bản sử dụng mức độ đòn bẩy hoạt động. Người ta có thể tính toán mức độ đòn bẩy hoạt động bằng cách chia tỷ lệ phần trăm thay đổi của thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS) của một công ty cho phần trăm thay đổi trong thu nhập trước lãi vay và thuế (EBIT) của nó trong một thời kỳ.
Tương tự, người ta có thể tính toán mức độ đòn bẩy hoạt động bằng cách chia EBIT của một công ty cho EBIT trừ đi chi phí lãi vay. Mức độ đòn bẩy hoạt động cao hơn cho thấy mức độ biến động cao hơn trong EPS của công ty. Phân tích DuPont sử dụng “số nhân vốn chủ sở hữu” để đo lường đòn bẩy tài chính. Người ta có thể tính số nhân vốn chủ sở hữu bằng cách chia tổng tài sản của một công ty cho tổng vốn chủ sở hữu. Sau khi được xác định, người ta nhân đòn bẩy tài chính với tổng vòng quay tài sản và tỷ suất lợi nhuận để tạo ra tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu.
Ví dụ: nếu một công ty giao dịch công khai có tổng tài sản trị giá 500 triệu đô la và vốn cổ đông trị giá 250 triệu đô la, thì hệ số vốn chủ sở hữu là 2,0 (500 triệu đô la / 250 triệu đô la). Điều này cho thấy công ty đã tài trợ một nửa tổng tài sản của mình bằng vốn chủ sở hữu. Do đó, số nhân vốn chủ sở hữu lớn hơn cho thấy đòn bẩy tài chính nhiều hơn. Nếu việc đọc bảng tính và thực hiện phân tích cơ bản không phải là tách trà của bạn, bạn có thể mua quỹ tương hỗ hoặc quỹ giao dịch trao đổi (ETF) sử dụng đòn bẩy. Bằng cách sử dụng những phương tiện này, bạn có thể ủy quyền việc nghiên cứu và quyết định đầu tư cho các chuyên gia.
Ký quỹ là một loại đòn bẩy đặc biệt liên quan đến việc sử dụng tiền mặt hoặc vị thế chứng khoán hiện có làm tài sản thế chấp được sử dụng để tăng sức mua của một người trên thị trường tài chính. Ký quỹ cho phép bạn vay tiền từ một nhà môi giới với lãi suất cố định để mua chứng khoán, quyền chọn hoặc hợp đồng tương lai với dự đoán nhận được lợi nhuận cao về cơ bản. Do đó, bạn có thể sử dụng ký quỹ để tạo đòn bẩy, tăng sức mua của mình bằng số tiền có thể ký quỹ — ví dụ: nếu tài sản thế chấp cần thiết để mua chứng khoán trị giá 10.000 đô la là 1.000 đô la, bạn sẽ có tỷ lệ ký quỹ 1:10 (và đòn bẩy gấp 10 lần).
3. Nhược điểm của đòn bẩy:
Đòn bẩy là một công cụ phức tạp, nhiều mặt. Lý thuyết nghe có vẻ tuyệt vời, và trong thực tế, việc sử dụng đòn bẩy có thể mang lại lợi nhuận, nhưng điều ngược lại cũng đúng. Đòn bẩy phóng đại cả lãi và lỗ. Nếu một nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy để đầu tư và khoản đầu tư đi ngược lại với nhà đầu tư, thì khoản lỗ của họ sẽ lớn hơn nhiều so với nếu họ không sử dụng đòn bẩy đầu tư.
Vì lý do này, các nhà đầu tư lần đầu nên tránh sử dụng đòn bẩy cho đến khi họ có thêm kinh nghiệm. Trong thế giới kinh doanh, một công ty có thể sử dụng đòn bẩy để tạo ra của cải cho cổ đông, nhưng nếu không làm như vậy, chi phí lãi vay và rủi ro tín dụng vỡ nợ sẽ phá hủy giá trị của cổ đông.
Ví dụ về đòn bẩy
Một công ty được thành lập với khoản đầu tư 5 triệu đô la từ các nhà đầu tư, trong đó vốn chủ sở hữu trong công ty là 5 triệu đô la – đây là số tiền mà công ty có thể sử dụng để hoạt động. Nếu công ty sử dụng tài chính vay nợ bằng cách vay 20 triệu đô la, thì bây giờ công ty đã có 25 triệu đô la để đầu tư vào hoạt động kinh doanh và có thêm cơ hội gia tăng giá trị cho các cổ đông. Ví dụ, một nhà sản xuất ô tô có thể vay tiền để xây dựng một nhà máy mới. Nhà máy mới sẽ cho phép nhà sản xuất ô tô tăng số lượng ô tô sản xuất và tăng lợi nhuận.