Đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã.
Đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã.
Tuy nhiên, luật cũng không quy định bắt buộc trong mọi trường hợp bắt đều phải tạm giữ. Trong trường hợp người bị bắt khi phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và không có hành động, biểu hiện sẽ cản trở việc điều tra thì không cần phải tạm giữ. Điều 86 BLTTHS 2003 cũng không quy định cụ thể các căn cứ áp dụng BPNC tạm giữ, mà căn cứ để tạm giữ được hiểu là nếu việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang khi có đủ căn cứ quy định tại Điều 81 và 82 BLTTHS năm 2003 thì đó cũng chính là căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giữ. Điều luật cũng quy định những người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ là những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp theo quy định tại Điều 81 BLTTHS 2003.
Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp thường phải bị tạm giữ, vì trong hầu hết các trường hợp khi quyết định bắt khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã xác định cần phải ngăn chặn việc người đó trốn hoặc cản trở điều tra.
Đối với người bị bắt theo lệnh truy nã, ngay sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải
Khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “ tạm giữ có thể áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu tú hoắc đối với người bị bắt theo quyết đinh truy nã”. Như vậy, việc tạm giữ có thể áp dụng với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang quy định tại các Điều 81 và 82 của BLTTHS, tức là các điều luật quy định về bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang và bắt người đang bị truy nã cũng như đối với phạm tội tự thú hoặc đầu thú. Nhận thức về quy định này cho thấy biện pháp tạm giữ có thể được áp dụng với các đối tượng bị bắt khẩn cấp, bắt quả tang, bắt truy nã, người đầu thú, tự thú chứ không bắt buộc, nói cách khác, sau khi bị bắt trong các trường hợp nêu trên, người bị bắt có thể bị tạm giữ hoặc không bị tạm giữ. Tinh thần này đã được quy định tại Điều 83 của BLTTHS. Khoản 1 Điều 83 quy định “ Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, hoặc phạm tội quả tang, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt”. Như vậy, biện pháp tạm giữ là một BPNC độc lập, việc quy áp dụng biện pháp này phải có những căn cứ nhất định chứ không phụ thuộc vào biện pháp bắt, nói cách khác, biện pháp tạm giữ không phải là biện pháp ngăn chặn bắt buộc phải áp dụng sau khi bắt người.
Khoản 3 Điều 87 quy định: “ Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ”. Như vậy sau khi bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quà tang, hoặc khi người phạm tội ra đầu thú, tự thú thì họ không thể không bị tạm giữ trong các trường hợp sau đây:
Luật sư
– Các cơ quan có thẩm quyền xác đinh được ngay việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang đối với họ là không có căn cứ.
– Ngay sau khi bắt người khẩn cấp hoặc bắt người phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú các cơ quan có thẩm quyền đã xác định được đầy đủ căn cứ để có thể khởi tố đối với người bị bắt, người tự thú, đầu thú nên đã ra các quyết định khởi tố cần thiết và cũng đã xác định được ngay căn cứ để có thể tạm giam đối với họ nên đã gia lện tạm giam với bị can mà không cần tạm giữ. Hoặc ngay sau khi bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú đã xác định đầy đủ căn cứ để khởi tố vụ án và khởi tố bị can nên cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định tạm giữ, rồi sau khi đã ra quyết định khởi tố cần thiết nhưng xét thấy không cần thiết phải tạm giam bị can nên cơ quan điều có thẩm quyền để cho bị được tại ngoại mà không cần thiết phải tạm giam bị can.
Ngoài các trường hợp nêu trên, nếu sau khi bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang, cơ quan có thẩm quyền đã gửi lệnh bắt cho VKS để VKS kiểm sát việc bắt và VKS đã không phê chuẩn việc đó thì cũng không được đưa ra quyết định tạm giữ đối với người bị bắt.
Mục lục bài viết
- 1 1. Thẩm quyền ra quyết định tạm giữ hình sự
- 2 2. Thủ tục tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015
- 3 3. Phân biệt tạm giữ trong tố tụng hình sự và tạm giữ hành chính
- 4 4. Người bị tạm giữ và quyền của người bị tạm giữ
- 5 5. Những trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giữ
- 6 6. Căn cứ tạm giữ trong tố tụng hình sự
- 7 7. Phạm tội cướp tài sản có bị tạm giữ không?
- 8 8. Quy định về tạm giữ trong tố tụng hình sự
1. Thẩm quyền ra quyết định tạm giữ hình sự
Khoản 2 Điều 86 BLTTHS quy định “ Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ”. Theo khoản 2 Điều 86 quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì có bốn nhóm người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp, gồm nhóm người sau đây:
– Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp ( cơ quan điều tra trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao… )
– Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương ; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.
– Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng.
– Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.
Như vậy theo quy định BLTTHS 2003 thì cơ quan điều tra cấp huyện trở lên có quyền ra quyết định tạm giữ. Chính quyền và công an xã, phường, thị trấn không có quyền tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự. Thực hiện quyết định này, khi nhận người bị bắt trong từng trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì UBND phường, xã, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới cơ quan thẩm quyền.
Như vậy, những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn là những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ trang.
2. Thủ tục tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Theo khoản 3 Điều 86 BLTTHS quy định muốn tạm giữ người phải có quyết định của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, thời hạn tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và giao cho người bị tạm giữ một bản. Nếu việc tạm giữ không có lệnh của người có thẩm quyền, người bị tạm giữ cơ quyền yêu cầu trả tự do cho họ. Quyết định này không đòi hỏi phải có sự phê chuẩn của VKS trước khi thi hành. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra lệnh tạm giữ, quyết định này phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Khi kiểm sát việc tạm giữ, nếu thấy việc tạm giữ không đúng pháp luật hoặc không cần thiết phải tạm giữ thì VKS ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ và cơ quan đã ra lệnh tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những trường hợp sau đây:
– Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt quả tang trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và không phải là người phạm tội tự thú, đầu thú.
– Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, chưa đến mức phải truy cứu trách nhỉệm hình sự:
– Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có biểu hiện sẽ trốn hoặc cản trở công việc điều tra.
Vậy khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 đã bổ sung quy định chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ.
3. Phân biệt tạm giữ trong tố tụng hình sự và tạm giữ hành chính
Tóm tắt câu hỏi:
Chào luật sư, em đang tìm hiểu một số vấn đề liên quan đến tạm giữ trong tố tụng hình sự. Vậy em muốn hỏi điểm khác biệt cơ bản giữa tạm giữ trong TTHS với tạm giữ trong hành chính. Mong luật sư giải đáp. Em cảm ơn.
Luật sư tư vấn:
Thứ nhất, về đối tượng áp dụng:
– Tạm giữ trong tố tụng hình sự: Là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
– Tạm giữ hành chính: Là những người thực hiện hành vi vi phạm hành chính và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính (đó là các hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác hoặac những hành vi vi phạm hành chính khác không phải là tội phạm).
Thứ hai, về mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn:
– Tạm giữ trong tố tụng hình sự: Để xác định căn cứ khởi tố bị can đối với người bị bắt hoặc giao người đang bị truy nã bị bắt cho cơ quan ra lệnh truy nã.
– Tạm giữ hành chính: Để ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác hoặc dể thu thập xác minh những tình tiết quan trọng làm căn cứ để ra quyết định xử lí vi phạm hành chính.
Thứ ba, về thẩm quyền tạm giữ:
– Tạm giữ trong tố tụng hình sự: Những người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam cũng có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ (hạn chế hơn thẩm quyền theo thủ tục hành chính).
– Tạm giữ hành chính: Ngoài Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp huyện, người chỉ huy tàu bay, tàu biển thì còn nhiều người khác có thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính.
Thứ tư, về thủ tục tạm giữ:
– Tạm giữ trong tố tụng hình sự: Phải có quyết định tạm giữ của người có thẩm quyền và phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ. Người bị tạm giữ sẽ bị tạm giữ ở Nhà tạm giữ hoặc buồng tạm giữ của Trại tạm giam.
-Tạm giữ hành chính: Phải có quyết định tạm giữ của người có thẩm quyền và không cần phải Viện kiểm sát phê chuẩn. Người bị tạm giữ không bị giữ ở Nhà tạm giữ hoặc buồng tạm giữ của Trại tạm giam.
Thứ năm, về thời hạn tạm giữ:
– Tạm giữ trong tố tụng hình sự: Là 3 ngày và có thể gia hạn hai lần mỗi lần không quá 3 ngày và phải được Viện kiểm sát phê chuẩn. Thời hạn tạm giữ sẽ được trừ vào thời hạn tạm giam và thời hạn chấp hành hình phạt. Một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày chấp hành hình phạt.
– Tạm giữ hành chính: Là 12 giờ và có thể kéo dài đến 24 giờ, đối với người vi phạm quy chế biên giới hoặc vi phạm hành chính ở vùng rừng núi xa xôi, hải đảo thì có thể kéo dài không quá 48 giờ. Thời hạn tạm giữ không được tính vào thời hạn tạm giam và thời hạn chấp hành hình phạt.
4. Người bị tạm giữ và quyền của người bị tạm giữ
Trong trường hợp nào thì người bị bắt bị coi là người bị tạm giữ? Người bị tạm giữ thì có quyền gì?
Điều 48 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003 quy định về người bị tạm giữ như sau:
1. Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.
2. Người bị tạm giữ có quyền:
a) Được biết lý do mình bị tạm giữ;
b) Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
c) Trình bày lời khai;
d) Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về tạm giữ theo quy định của pháp luật.
5. Những trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giữ
Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và những người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã (Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).Tạm giữ để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra của người phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ, bước đầu xác định tính chất hành vi của người bị tạm giữ.
Khoản 3 Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “ Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ”. Như vậy sau khi bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quà tang , hoặc khi người phạm tội ra đầu thú, tự thú thì họ không thể không bị tạm giữ trong các trường hợp sau đây:
– Các cơ quan có thẩm quyền xác đinh được ngay việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang đối với họ là không có căn cứ.
– Ngay sau khi bắt người khẩn cấp hoặc bắt người phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú các cơ quan có thẩm quyền đã xác định được đầy đủ căn cứ để có thể khởi tố đối với người bị bắt, người tự thú, đầu thú nên đã ra các quyết định khởi tố cần thiết và cũng đã xác định được ngay căn cứ để có thể tạm giam đối với họ nên đã gia lện tạm giam với bị can mà không cần tạm giữ. Hoặc ngay sau khi bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú đã xác định đầy đủ căn cứ để khởi tố vụ án và khởi tố bị can nên cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định tạm giữ, rồi sau khi đã ra quyết định khởi tố cần thiết nhưng xét thấy không cần thiết phải tạm giam bị can nên cơ quan điều có thẩm quyền để cho bị được tại ngoại mà không cần thiết phải tạm giam bị can.
Ngoài các trường hợp nêu trên, nếu sau khi bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang, cơ quan có thẩm quyền đã gửi lệnh bắt cho VKS để Viện kiểm sát kiểm sát việc bắt và VKS đã không phê chuẩn việc đó thì cũng không được đưa ra quyết định tạm giữ đối với người bị bắt.
6. Căn cứ tạm giữ trong tố tụng hình sự
Điều 86 BLTTHS năm 2003 không quy định cụ thể căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ mà căn cứ tạm giữ được hiểu là nếu việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang khi có đủ căn cứ quy định tại Điều 81 và 82 BLTTHS năm 2003 thì đó cũng chính là căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giữ. Các căn cứ đó cụ thể như sau:
“Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ”. (Khoản 1 Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự 2003)
“Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã…” (Khoản 1 Điều 82 Bộ luật tố tụng hình sự 2003).
Biện pháp tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn độc lập, việc quy áp dụng biện pháp này phải có những căn cứ nhất định chứ không phụ thuộc vào biện pháp bắt, nói cách khác, biện pháp tạm giữ không phải là biện pháp ngăn chặn bắt buộc phải áp dụng sau khi bắt người.
7. Phạm tội cướp tài sản có bị tạm giữ không?
Tóm tắt câu hỏi:
Con trai tôi năm nay 18 tuổi do chơi bời, sa ngã cháu cùng bạn đã rủ nhau cướp tài sản, và bị công an bắt quả tang ngay tại chỗ. Tôi muốn luật sự tư vấn giúp tôi liệu con trai tôi có bị tạm giữ không?
Luật sư tư vấn:
Điều 86. Tạm giữ
1. Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
2. Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ.
Người thi hành quyết định tạm giữ phải giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.
3. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm giữ một bản.
Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn hạn chế một số quyền của công dân, quyền con người của người bị bắt. Mục đích của biện pháp tạm giữ là để đảm bảo cho cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế, bên cạnh đó biện pháp tạm giữ còn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người liên quan.
Như vậy việc con trai anh cùng bạn tiến hành cướp tài sản của người khác và bị công an bắt quả tang ngay tại chỗ thì sẽ bị áp dụng biện pháp tạm giữ để thuận lợi cho cơ quan điều tra tiến hành điều tra.
8. Quy định về tạm giữ trong tố tụng hình sự
Tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự là biện pháp ngăn chặn do người có thẩm quyền áp dụng với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người bị bắt trốn việc điều tra, xác minh, và để quyết định việc khởi tố bị can, tạm giam hoặc trả tự do cho người bị bắt.
– Đối tượng bị áp dụng biện tạm giữ có thể là:
+) Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp: Theo quy định tại khoản 1 Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp:
a) Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
+) Người phạm tội quả tang: là người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện
+) Người phạm tội tự thú hoặc đầu thú
+) Người bị bắt theo quyết định truy nã
Luật sư
– Người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ:
+) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
+) Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
+) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng;
+) Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
– Thời hạn tạm giữ: Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.