Đặc điểm phức tạp, kéo dài của hành động phạm tội đó không làm cho hành động mất đi tính thống nhất của nó và việc thực hiện một hành động gây ra hai hành vi phạm tội trở lên không vì vậy mà chuyển việc định tội danh từ phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng thành phạm nhiều tội tổng hợp thực tế.
Mục lục bài viết
1. Một số vấn đề chung về định tội danh đối với trường hợp nhiều tội phạm:
Nhiều tội phạm là trường hợp một người phạm từ hai tội trở lên, không phụ thuộc vào việc người đó có bị xét xử về các tội đã phạm hay chưa; các tội này chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, không có những trở ngại về mặt tố tụng hình sự để khởi tố vụ án hình sự và chưa được xóa án tích về các tội đã phạm. Nhiều tội phạm có ba hình thức biểu hiện là phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần và tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Từ khái niệm và các hình thức biểu hiện của nhiều tội phạm như trên, dưới góc độ khoa học luật hình sự chúng ta thấy rằng: định tội danh đối với trường hợp nhiều tội phạm là sự đánh giá về mặt pháp lý hình sự hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trong trường hợp phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần và tái phạm, tái phạm nguy hiểm trên cơ sở đối chiếu, so sánh và kiểm tra để xác định sự giống nhau giữa các dấu hiệu của hành vi ấy với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể do các điều luật tương ứng tại Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định.
Trong những trường hợp người phạm tội thực hiện không phải một tội phạm mà thực hiện nhiều tội phạm thì việc định tội danh đối với các hành vi đó có một số đặc điểm và thường gặp một số khó khăn nhất định. So với trường hợp người phạm tội thực hiện một tội phạm thì trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều tội phạm thường gây ra những thiệt hại lớn hơn về vật chất, thể chất và tinh thần. Việc thực hiện nhiều tội phạm chứng tỏ mức độ nguy hiểm rất lớn cho xã hội. Trong trường hợp đó đòi hỏi việc trừng trị người phạm tội cần phải nghiêm khắc hơn, do đó việc định tội danh các trường hợp này cần phải chính xác, để không bỏ sót một hành vi phạm tội nào của kẻ phạm tội và cũng không làm oan người rằng người phạm tội vô tội. Muốn vậy, khi định tội danh đối với các trường hợp nhiều tội phạm phải lưu ý những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, phải xem xét làm rõ tất cả những tình tiết thực tế có liên quan đến việc một người thực hiện nhiều tội phạm; mối quan hệ giữa các tình tiết đó trong tổng thể của vụ án và đối với từng hành vi phạm tội cụ thể.
Thứ hai, phải nhận thức đúng đắn các quy phạm pháp luật hình sự có liên quan đến các hành vi phạm tội do một người thực hiện, đặc biệt phải nhận thức đúng các quy phạm pháp luật quy định cấu thành tội phạm ở Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự có thể áp dụng đối với người thực hiện các hành vi phạm tội nói trên.
Thứ ba, so sánh, đối chiếu các hành vi phạm tội do người đó thực hiện với những dấu hiệu của các cấu thành tội phạm được quy định trong pháp luật hình sự đã được lựa chọn để xác định sự phù hợp, tương đồng và xem xét trong các hành vi đó, hành vi nào đã được Tòa án xét xử, hành vi phạm tội nào còn đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Thứ tư, kết luận trường hợp cụ thể đang được xem xét khi định tội danh thuộc hình thức biểu hiện nào của nhiều tội phạm: phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần và tái phạm, tái phạm nguy hiểm để có cơ sở áp dụng các quy định khác của Bộ luật hình sự có liên quan đến trường hợp nhiều tội phạm đó.
Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét việc định tội danh đối với từng trường hợp của nhiều tội phạm.
2. Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội:
Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội giữ một vị trí hết sức quan trọng trong khoa học luật hình sự và trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở nước ta, mặc dù pháp luật hình sự hiện hành chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm phạm nhiều tội, mà chỉ quy định những nguyên tắc của việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 55
Muốn định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội chính xác cần phải chú ý tới các dấu hiệu cơ bản nhất của trường hợp phạm nhiều tội. Đó là: thứ nhất, xác định một người có lỗi trong việc thực hiện hai hay nhiều tội phạm; thứ hai, các hành vi phạm tội đó được quy định trong Phần các tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự; thứ ba, người phạm tội chưa bị xét xử về bất cứ một tội nào trong số các tội phạm đó. Chỉ khi nào nhận thức được đầy đủ cả ba dấu hiệu đó của phạm nhiều tội, thì việc định tội danh đối với phạm nhiều tội mới có thể chính xác.
Trong quá trình định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội, việc nhận thức, giải thích dấu hiệu thứ hai là một trong những vấn đề phức tạp nhất và còn có nhiều ý kiến khác nhau. Việc giải quyết đúng đắn vấn đề đó về mặt lý luận cũng như về mặt lập pháp có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc định tội danh trường hợp phạm nhiều tội trong thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án phạm nhiều tội nói chung và định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội nói riêng. Vấn đề phức tạp trong trường hợp này thể hiện ở chỗ: cần hiểu như thế nào về các hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự? Chẳng hạn, trường hợp các hành vi nguy hiểm cho xã hội do một người thực hiện được quy định trong cùng một khoản của một điều luật có phải là phạm nhiều tội hay không, hay chỉ coi là phạm nhiều tội trường hợp khi các hành vi nguy hiểm cho xã hội do một người thực hiện được quy định trong các điều luật khác nhau của Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự? Rõ ràng, từ hai cách hiểu khác nhau này, sẽ dẫn đến hai cách định tội danh khác nhau. Nếu chỉ coi phạm nhiều tội trong trường hợp các hành vi nguy hiểm cho xã hội do một người thực hiện được quy định tại các điều luật khác nhau của Phần các tội phạm là chưa đầy đủ và chưa phù hợp với yêu cầu, nội dung thực tế của các điều luật quy định về tội phạm và không đáp ứng yêu cầu tăng cường đấu tranh phòng, chống đối với trường hợp phạm nhiều tội. Theo quan điểm của tác giả, có những trường hợp mà các hành vi phạm tội do một người thực hiện được quy định trong cùng một khoản của một điều luật phải được coi là trường hợp phạm nhiều tội. Vấn đề cơ bản và quan trọng nhất cần phân biệt ở đây là mỗi hành vi phạm tội trong số đó mang tính chất của một hành vi phạm tội độc lập và không thuộc khái niệm phạm tội nhiều lần.
Ví dụ: một người tàng trữ hai khẩu súng quân dụng và mua 5 quả lựu đạn, thì phải bị định tội danh và truy tố về hai tội là “tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” và “mua bán trái phép vũ khí quân dụng” đều được quy định tại khoản 1 Điều 304
Để bảo đảm chính xác trong việc định tội danh trường hợp phạm nhiều tội, trong lý luận luật hình sự và lý luận định tội danh, người ta phân chia phạm nhiều tội thành hai dạng là phạm nhiều tội tổng hợp thực tế và phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng. Do đó, khi định tội danh trường hợp phạm nhiều tội chúng ta cũng phải định tội danh theo hai dạng biểu hiện của nó:
2.1. Định tội danh đối với trường hợp phạm nhiều tội thuộc dạng tổng hợp thực tế:
Phạm nhiều tội thuộc dạng tổng hợp thực tế là trường hợp khi một chủ thể thực hiện nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội độc lập với nhau, những hành vi đó cấu thành hai tội phạm trở lên được quy định tại các điều luật khác nhau hoặc tại các khoản khác nhau của một điều luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Trong trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế các tội phạm được thực hiện trong những thời gian khác nhau. Khoảng cách thời gian giữa việc thực hiện các tội phạm đó có thể là dài hoặc không đáng kể. Thế nhưng trong mọi trường hợp từng hành vi phạm tội phải có tính độc lập, chứa đựng cấu thành của một tội phạm riêng biệt.
Từ khái niệm về phạm nhiều tội tổng hợp thực tế như trên, khi định tội danh đối với trường hợp này cần chú ý: phạm nhiều tội tổng hợp thực tế có nhiều loại hành vi khác nhau, trong đó có hai loại hành vi đặc trưng là: 1) các loại hành vi phạm tội khác nhau, ví dụ: một người thực hiện hành vi cướp tài sản trước sau đó thực hiện hành vi hiếp dâm sau; 2) các loại hành vi phạm tội cùng loại, ví dụ: một người thực hiện hành vi cướp tài sản trước, sau đó thực hiện hành vi trộm cắp tài sản sau.
Việc định tội danh trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế trong lý luận luật hình sự và trong thực tiễn xét xử cho thấy, các trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế không chỉ bao gồm những trường hợp khi tội phạm đã hoàn thành, mà còn cả những trường hợp khi có tội ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt, còn tội khác đã hoàn thành hoặc là cả hai tội đều chưa hoàn thành.
Ví dụ 1: Hoàng Văn K bị Công an tỉnh H bắt giam vì đã tham gia vào vụ đồng phạm hiếp dâm chị Nguyễn Thị B. Sau đó K bỏ trốn khỏi trại tạm giam của
Ví dụ 2: trong tháng 9 năm 2000, Trần Văn V đã thực hiện hành vi cưỡng dâm chưa đạt đối với chị Nguyễn Thị C; đến tháng 12 năm 2000, Trần Văn V lại thực hiện hành vi trộm cắp xe máy của anh Lê Văn T nhưng bị phát hiện. Trong trường hợp này, các hành vi phạm tội của Trần Văn V được định tội danh là phạm nhiều tội tổng hợp thực tế, vì V đã phạm hai tội: tội cưỡng dâm được quy định tại Điều 178 và tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.
Trong ví dụ thứ nhất, Hoàng Văn K đã có hành vi hiếp dâm và trốn khỏi nơi giam, giữ hoàn thành còn hành vi giết người ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Trong ví dụ thứ hai, Trần Văn V đã thực hiện hành vi cưỡng dâm và hành vi trộm cắp tài sản đều ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, nói cách khác hai tội phạm này đều chưa hoàn thành.
Cũng có thể định tội danh phạm nhiều tội tổng hợp thực tế trong trường hợp người phạm tội khi thực hiện tội phạm này thì giữ vai trò là người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức, còn trong việc thực hiện tội phạm khác thì giữ vai trò người thực hành hoặc ngược lại.
Ví dụ: khoảng trung tuần tháng 4 năm 2000, Nguyễn Thị Ngh và Nguyễn Hữu Ch là hai chị em ruột mở quán hàng giải khát và hát Karaoke tại nhà Ngh. Để thu được nhiều tiền, Ngh đã nhờ Nguyễn Thị H là vợ Nguyễn Hữu Ch và Lê Thị Th là chị dâu của H về quê tìm hai cô gái trẻ xuống bán hàng và tiếp khách cho thị Ngh. H và Th nhận lời và đã về quê tìm được hai cô gái là Hà Thị L và Hà Thị H. Khi H và Th giao hai cô gái cho Ngh, thị đã giao cho Nguyễn Thị H và Th số tiền là 600.000 đồng để hai thị chia nhau. Đối với hai cô gái H và L, khi bán hàng, Ngh và Ch đã yêu cầu hai người này, ngoài việc phục vụ bán hàng, còn phải “tiếp khách” khi khách có nhu cầu phục vụ sinh lý. Từ đó, khi có khách hàng đến có nhu cầu mua dâm, Ngh và Ch thay nhau đưa H và L đến các nhà nghỉ để bán dâm và thu tiền của khách. Tháng 5 năm 2000, khi Ngh và Ch đưa L đến nhà nghỉ bán dâm thì bị bắt. Hành vi phạm tội của Ch và Ngh là trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế và được định tội danh hai tội: tội mua bán phụ nữ (Điều 150 Bộ luật hình sự năm 2015), tội môi giới mại dâm (Điều 328 Bộ luật hình sự năm 2015). Trong tội mua bán phụ nữ, Ngh và Ch đóng vai trò là người tổ chức, còn trong tội môi giới mại dâm, thì lại đóng vai trò là người thực hành.
Việc nghiên cứu thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử còn cho thấy tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội là những trường hợp mà trong đó những kẻ thực hiện các hành vi phạm tội có biểu hiện khác nhau về thái độ tâm lý đối với hành vi phạm tội của mình, thời gian cách nhau giữa các lần phạm tội càng xa thì tính nguy hiểm cho xã hội càng cao. Bởi lẽ, trong những điều kiện như nhau, thì trường hợp tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội mà trong đó các tội phạm xảy ra tại cùng một địa điểm và trong một thời điểm nhất định thì xét về hành vi và nhân thân người phạm tội ít nguy hiểm cho xã hội hơn so với những trường hợp tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội mà trong đó các tội phạm được thực hiện vào những thời điểm xa nhau. Nếu như trong trường hợp thứ nhất, người thực hiện một số tội phạm, đang ở trong một trạng thái tâm lý không ổn định, trạng thái tâm lý đó có ảnh hưởng đến tính chất và mức độ của các quyết định tức thời, thì trong trường hợp thứ hai người thực hiện một số tội phạm vào những thời điểm khác nhau, trạng thái tâm lý ổn định hơn, những quyết định về hành vi phạm tội của họ được chuẩn bị kỹ càng hơn. Do đó, viên người phạm tội ở trong trạng thái ổn định như vậy, lại phạm một tội mới chứng tỏ tính nguy hiểm của hành vi và ý thức chống đối xã hội của nhân thân kẻ phạm tội sẽ cao hơn. Điều đó chứng tỏ rằng, các tội phạm trong trường hợp tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội ở các thời điểm khác nhau sẽ thể hiện các mức độ khác nhau về bản chất chống đối xã hội và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi người phạm tội.
Lý luận luật hình sự trên thế giới từ lâu đã chứng minh trường hợp tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội có các hình thức biểu hiện khác nhau và nêu ra những tiêu chí cụ thể để phân chia các dạng của tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội. Việc nhận thức một cách đúng đắn các hình thức biểu hiện khác nhau của trường hợp tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội cũng giúp chúng ta phân biệt được trường hợp tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội với những trường hợp phạm tội đơn nhất phức tạp, nhằm giải quyết được các vấn đề về định tội danh cũng như cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội.
Trong lý luận luật hình sự Liên Xô trước đây, đã từng có quan điểm cho rằng tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội có hai hình thức biểu hiện, đó là: phạm nhiều tội tổng hợp thực tế cùng loại và phạm nhiều tội tổng hợp thực tế khác loại. Do đó, trong quá trình định tội danh đối với trường hợp tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội, lý luận luật hình sự Liên Xô cũng đưa ra khi định tội danh đối với trường hợp trên, phải định tội danh cả hai trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế cùng loại và phạm nhiều tội tổng hợp thực tế khác loại.
Trong lý luận định tội danh trường hợp phạm nhiều tội thuộc dạng tổng hợp thực tế ở nước ta hiện nay, phải định tội danh trên hai hình thức biểu hiện như sau:
Hình thức thứ nhất: Phạm nhiều tội tổng hợp thực tế được xác định bởi một tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với một tội phạm khác. Ví dụ: Khoảng 20 giờ ngày 17-11-2000, Đỗ Văn T và Lê Văn M đang ngồi uống rượu tại một quán nước bên đường quốc lộ số 1, thì thấy một chiếc xe ô tô dừng lại. T và M đi về phía xe ô tô đỗ, trèo lên cabin xin tiền anh Ch là lái xe. Khi anh Ch trả lời không có tiền, T liền thọc tay vào túi quần, lấy ra một quả lựu đạn, khống chế anh Ch, buộc anh Ch phải đưa cho chúng 200.000 đồng. T và M bị định tội danh về hai tội: tội tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng được quy định tại Điều 304 Bộ luật hình sự năm 2015 và tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015. Trong trường hợp này, giữa tội tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng và tội cướp tài sản có sự gắn liền với nhau; tội tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng tạo điều kiện cho tội cướp tài sản được thực hiện. Cho nên, trường hợp này được định tội danh là phạm nhiều tội tổng hợp thực tế mà tội phạm này có mối quan hệ chặt chẽ với một tội phạm khác.
” Hình thức thứ hai: phạm nhiều tội tổng hợp thực tế mà trong đó các tội phạm không liên quan đến nhau, do cùng một chủ thể thực hiện. Ví dụ: Mai Văn D và Trịnh Văn Q là hai đối tượng hình sự quen biết nhau trong trại cải tạo T, bàn nhau đến xã N để cướp tiền, vàng của bà Nguyễn Thị Đ. Khi đến nhà bà Đ lúc 20 giờ, không thấy bà Đ ở nhà, hai tên đã lục soát nhà cửa và lấy trộm một chiếc xe đạp, một chiếc phích đem ra bờ rào nhà bà Đ cất giấu và ngồi đợi. Đến 23 giờ, bà Đ đi xem vô tuyến ở nhà bên cạnh về, thì tên Quyết xông ra dùng hai tay bóp cổ bà Đ, còn tên D xông vào dùng tay giật lấy chiếc hoa tai vàng bên phải. Bị cướp, bà Đ hô hoán dân làng đến cứu và chúng đã bị bắt. Hai tên Mai Văn D và Trịnh Văn Q bị định tội danh về hai tội: tội trộm cắp tài sản (Điều 173 Bộ luật hình sự 2015) và tội cướp tài sản (Điều 168 Bộ luật hình sự 2015). Trong trường hợp này, các hành vi phạm tội của tên D và tên Q đã hợp thành trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế và các hành vi phạm tội đó không liên quan đến nhau.
Thực tiễn định tội danh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử cũng cho thấy, mối liên hệ giữa các tội phạm tạo thành phạm nhiều tội tổng hợp thực tế thuộc hình thức biểu hiện thứ nhất được thể hiện ở chỗ: một trong số các tội phạm được thực hiện giữ vai trò là điều kiện, phương tiện, phương thức thực hiện tội phạm khác hoặc một trong số các tội phạm ấy là phương tiện, phương thức che giấu tội phạm khác hoặc tất cả các hành vi phạm tội đó đều được thực hiện bởi một động cơ phạm tội nhất định…
Qua nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án phạm nhiều tội tại tỉnh TH cho thấy rằng, nếu trong 100% vụ án được định tội danh là trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế thì có tới 89,5% vụ thuộc hình thức biểu hiện thứ nhất, chỉ có 10,5% vụ thuộc hình thức biểu hiện thứ hai. Trong số 89,5% thuộc hình thức thứ nhất, có 29,5% các trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế, trong đó giữa các tội phạm không có sự thống nhất về động cơ và tính chất xâm phạm và tất cả những trường hợp phạm tội đó đều khác nhau về ý đồ và mức độ thực hiện. Do đó, việc định tội danh các trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế trong trường hợp có sự khác nhau về động cơ và tính chất xâm phạm không có sự nhầm lẫn. Như vậy 40% (29,5% và 10,5%) số vụ phạm nhiều tội tổng hợp thực tế không có khó khăn trong việc định tội danh. Còn 60% số vụ phạm nhiều tội tổng hợp thực tế, mà giữa các tội phạm có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và chính số vụ này trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan bảo vệ pháp luật đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc định tội danh. Mối liên hệ chặt chẽ đó được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, tội phạm này quyết định khả năng thực hiện tội phạm khác. Ví dụ: Cao Sĩ S là đối tượng nghiện hút thuốc phiện, y đã sắm một bộ bàn đèn để hút. Ngoài ra, S còn thường xuyên cho anh Th ở cạnh nhà hút lại sái thuốc phiện. Sau đó, Sông tổ chức cho các tên Th, Q hút thuốc phiện tại nhà mình. Để có thuốc phiện hút, S đã tìm mối đi mua thuốc phiện. Ngày 17-9-2000, trong lúc S đang mua thuốc phiện của một người lạ mặt thì bị bắt quả tang. S đã bị định tội danh và bị truy tố về hai tội: tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 355 Bộ luật hình sự 2015 và tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 354 Bộ luật hình sự 2015.
Trong trường hợp này, các hành vi phạm tội của S phải được định tội danh là trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế và các tội phạm này có liên quan đến nhau, hành vi phạm tội này quyết định khả năng thực hiện hành vi phạm tội khác, do hành vi tổ chức hút thuốc phiện mà tên S đã đi tìm mua thuốc phiện và hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy quyết định khả năng thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy.
Thứ hai, tội phạm này là phương tiện, phương thức thực hiện một tội phạm khác. Ví dụ: Lê Văn Ch quê ở huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, sau khi vào ăn cơm ở nhà một người quen là anh K ở xã Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tên Ch về nhà. Khi qua xã Cẩm Vân, huyện Cẩm Thủy vào hồi 1 – 2 giờ sáng, Ch vào hè nhà anh T lấy trộm hai quần âu và một chiếc xe Phượng Hoàng xích hộp. Ch đang dắt xe ra đến sân, thì bị gia đình anh T phát hiện, hô hoán làng xóm cùng vây bắt. Ch bỏ chạy đến cổng nhà anh T, thì y dừng lại lấy quả lựu đạn mỏ vịt từ trong túi quần, rút chốt ném về phía mọi người đang vây bắt. Vì quả lựu đạn chỉ nổ kíp, nên không gây hậu quả gì. Ch đã bị định tội danh và bị truy tố về ba tội: tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, tội giết người được quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự 2015 và tội tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng được quy định tại Điều 304 Bộ luật hình sự 2015. Đây là trường hợp phải được định tội danh là phạm nhiều tội tổng hợp thực tế, các tội này có mối liên hệ mật thiết với nhau và đặc biệt tội tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng là phương tiện để thực hiện tội giết người, các hành vi phạm tội được thực hiện tại cùng một địa điểm, vào cùng một thời gian.
Thứ ba, tội phạm này được bắt nguồn từ một tội phạm khác. Ví dụ: Trần Văn T đang trong tình trạng say rượu, vào nhà của một phụ nữ không quen biết với y. Nhìn thấy trong nhà không có ai ngoài người phụ nữ tên là Nguyễn Thị B, y đã khống chế và thực hiện hành vi hiếp dâm đối với chị B, đúng lúc đó mẹ chị B đi làm về và đã hô hoán. T đã dùng gậy đánh vào đầu người mẹ làm cho bà ta bị thương nặng. T đã bị định tội danh và bị truy tố về hai tội: tội hiếp dâm được quy định tại Điều 141 Bộ luật hình sự 2015, tội cố ý gây thương tích được quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015. Trường hợp này cũng được định tội danh là phạm nhiều tội tổng hợp thực tế, trong đó tội cố ý gây thương tích được bắt nguồn từ tội hiếp dâm và cùng xảy ra tại một địa điểm, trong cùng một thời gian.
Thứ tư, tội phạm này giữ vai trò là phương tiện, phương thức che giấu tội phạm khác. Chẳng hạn như các tội sau: tội trộm cắp tài sản (Điều 173 Bộ luật hình sự 2015) và tội giả mạo trong công tác (Điều 359 Bộ luật hình sự 2015); tội trộm cắp tài sản (Điều 173 Bộ luật hình sự 2015) và tội lừa dối khách hàng (Điều 198 Bộ luật hình sự 2015); tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 260 Bộ luật hình sự 2015) gây ra thương tích nặng hoặc thương tích nhẹ và tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 132 Bộ luật hình sự 2015); tội gây rối trật tự công cộng (Điều 318 Bộ luật hình sự 2015) và tội chống người thi hành công vụ (Điều 330 Bộ luật hình sự 2015) v.v… Các hành vi phạm tội là phương thức hoặc phương tiện để che dấu một tội phạm khác đã thực hiện trước đó, hoặc là phương tiện trốn tránh trách nhiệm hình sự đối với tội phạm khác luôn luôn được đánh giá là hành vi phạm tội độc lập trong tổng thể đối với những tội đã xảy ra trước đó. Do đó, khi định tội danh các trường hợp này, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử phải định tội danh là trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế.
Thứ năm, các tội phạm đều được thực hiện tại cùng một địa điểm và cùng một thời gian. Ví dụ: Trần Văn T cùng chung sống với một người phụ nữ tên là Nguyễn Thị A tại nhà cô ta. Sau một thời gian chung sống, do mâu thuẫn giữa hai người, T đã dùng dao giết chết chị A, sau đó dùng búa đập vỡ ti vi, tủ kính, phá cửa, đập nát kính cửa sổ và đến cơ quan công an tự thú. Trần Văn T đã bị định tội danh và truy tố về hai tội: giết người (Điều 123 Bộ luật hình sự 2015) và tội hủy hoại tài sản (Điều 178 Bộ luật hình sự 2015). Trong trường hợp này, các hành vi phạm tội của Trần Văn T phải được định tội danh là tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội, hai hành vi phạm tội của Trần Văn T không có mối liên quan gì với nhau, tuy cả hai hành vi ấy đều xảy ra tại một địa điểm và trong một khoảng thời gian nhất định.
Một ví dụ khác: Lê Văn B đã có hành vi hiếp dâm đối với chị H, sau đó y đã đe dọa và chiếm đoạt hai chiếc nhẫn vàng bốn chỉ của chị H rồi bỏ trốn. Khi bị bắt y đã nhận toàn bộ tội lỗi của mình. Lê Văn B đã bị định tội danh và truy tố về hai tội: tội hiếp dâm (Điều 141 Bộ luật hình sự 2015) và tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170 Bộ luật hình sự 2015). Trong trường hợp này, rõ ràng hành vi hiếp dâm của Lê Văn B không phải là phương tiện, điều kiện, phương thức thực hiện hoặc che dấu tội cưỡng đoạt tài sản của chị H và hai tội ấy đều xảy ra tại một địa điểm, trong một khoảng thời gian nhất định.
Qua hai ví dụ trên chúng ta thấy rằng, đặc trưng của trường hợp các tội phạm thực hiện tại cùng một địa điểm và cùng một thời gian được đánh giá là hành vi phạm tội độc lập khi tất cả các hành vi phạm tội ấy hướng tới gây thiệt hại cho các khách thể khác nhau được pháp luật hình sự bảo vệ và trong trường hợp này phải được định tội danh là phạm nhiều tội tổng hợp thực tế.
Ngoài ra, cũng có những trường hợp được định tội danh là phạm nhiều tội tổng hợp thực tế, mặc dù những hành vi phạm tội này không quyết định khả năng thực hiện hành vi phạm tội khác, các hành vi phạm tội không liên quan đến nhau, kể cả về thời gian và địa điểm thực hiện tội phạm. Ví dụ: ngày 1-3-2000, Vũ Tuấn A lấy trộm chiếc ti vi hiệu JVC ở nhà mình mang đi bán lấy 1-500.000 đồng để ăn chơi. Khi đi chợ về, phát hiện chiếc ti vi bị mất, mẹ Tuấn A đoán ngay ra thủ phạm là con trai mình và tố cáo với cơ quan Công an. Ngày 14-4- 2000, Tuấn A bị bắt, trong quá trình điều tra y khai nhận đã cùng với tên Nguyễn Mạnh C gây ra hai vụ cướp giật khác vào tháng 1-2000, trong đó có một vụ cướp giật 4.800 USD của một người Đài Loan. Tuấn A bị định tội danh về hai tội: tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 và tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự 2015. Đây là trường hợp được định tội danh là phạm nhiều tội tổng hợp thực tế, trong đó các hành vi phạm tội được thực hiện không liên quan đến nhau, kể cả về thời gian và địa điểm thực hiện tội phạm: hành vi trộm cắp tài sản do tên A thực hiện không ảnh hưởng gì đến việc thực hiện hành vi cướp giật tài sản.
Thực tiễn định tội danh còn có những trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế, nhưng cùng loại động cơ phạm tội. Ví dụ: một người phạm tội trộm cắp tài sản, hai tháng sau đó lại phạm tội cướp giật tài sản. Các hành vi phạm tội có cùng loại động cơ trong ví dụ này được định tội danh là các tội phạm độc lập với nhau, và trường hợp này cũng được định tội danh là phạm nhiều tội tổng hợp thực tế.
2.2. Định tội danh đối với trường hợp phạm nhiều tội thuộc dạng tổng hợp trừu tượng:
Phạm nhiều tội thuộc dạng tổng hợp trừu tượng là trường hợp khi một chủ thể thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội và hành vi đó cấu thành hai hoặc nhiều tội phạm được quy định tại các điều luật khác nhau hoặc tại các khoản khác nhau của một điều luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
Cũng như định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế, việc định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng cũng phải dựa trên cơ sở nhận thức đúng các hình thức biểu hiện của nó. Do đó, trong quá trình định tội danh đối với trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng, phải định tội danh trên hai hình thức biểu hiện của nó là:
Hình thức biểu hiện thứ nhất, phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng xâm hại một khách thể là trường hợp bằng một hành vi nguy hiểm cho xã hội người phạm tội đã gây ra hai hay nhiều tội phạm và cả hai hay nhiều tội phạm đó đều hướng tới gây thiệt hại hoặc cùng gây thiệt hại cho một khách thể mà luật hình sự bảo vệ. Trong trường hợp này, mặc dù người phạm tội chỉ có một hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi ấy chỉ xâm phạm đến một khách thể, nhưng hành vi ấy lại cấu thành hai tội phạm độc lập, do đó khi định tội danh đối với trường hợp này phải được định tội danh là trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng.
Ví dụ: tại nơi làm việc trong phân xưởng điện, Nguyễn Văn H đã có hành vi dùng cưa cưa đứt và lấy trộm 3m ống thép không gỉ từ cỗ máy nung hơi của nhà máy để bán lấy tiền tiêu xài, làm cho cỗ máy bị hư hỏng hoàn toàn. Như vậy, Nguyễn Văn H bị định tội danh và truy tố về hai tội: tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được quy định tại Điều 178 Bộ luật hình sự 2015. Đây là trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng xâm hại một khách thể, mà bằng một hành động của đứt để lấy trộm 3m ống thép không gỉ, H đã thực hiện hai tội phạm cùng xâm hại một khách thể là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước được luật hình sự bảo vệ. Trong trường hợp này, H phải bị định tội danh là phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng.
Trong ví dụ trên, các tội hợp thành phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng đều là các tội cố ý, nhưng thực tiễn định tội danh cho thấy, có trường hợp một tội có lỗi là cố ý còn tội kia lỗi lại là vô ý.
Ví dụ: trong một buổi đi xem phim tại bãi chiếu phim của xã, K và D đã trêu chọc và đánh Trần Văn T nhưng T chạy thoát ra khỏi bãi chiếu phim và chạy về nhà mình. K và D đuổi theo, khi đuổi đến nhà T chúng la lối và kêu T ra ngoài phố để “giải quyết”, chúng dùng gạch đập vỡ kính cửa sổ nhà T. ở trong nhà, T lấy khẩu súng săn của bố, nạp vào đó một viên đạn, chạy về phía K và D đứng. Khi nhìn thấy T cầm súng K và D bỏ chạy, T nâng súng nhằm vào hướng K và D đã chạy, bắn một phát nhưng viên đạn đã trúng vào chị Nguyễn Thị A đang đi lại hướng nhà T, làm chị A chết ngay tại chỗ. Trong trường hợp này, bằng một hành động bắn súng, T đã bị định tội danh phạm hai tội: tội giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh (ở giai đoạn phạm tội chưa đạt) được quy định tại Điều 125 Bộ luật hình sự 2015 và tội vô ý làm chết người được quy định tại Điều 128 Bộ luật hình sự 2015. Đây là trường hợp được định tội danh là phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng xâm hại một khách thể đó là tính mạng, sức khỏe của công dân.
Từ hai ví dụ trên đây, lý luận định tội danh về phạm nhiều tội có thể chia phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng xâm hại một khách thể làm hai trường hợp: phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng xâm hại một khách thể có cùng một hình thức lỗi (hay có hình thức lỗi cùng loại) và trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng xâm hại một khách thể có hình thức lỗi khác nhau (hay có hình thức lỗi khác loại).
Hình thức biểu hiện thứ hai: phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng xâm hại đến nhiều khách thể là trường hợp bằng một hành vi nguy hiểm cho xã hội, kẻ phạm tội đã gây ra hai hay nhiều tội phạm trở lên và các tội phạm đó xâm hại tới hai hay nhiều khách thể khác nhau.
Ví dụ: ngày 25 tháng 5 năm 2000, anh Giang Khôn M và anh Hồng Quang V quốc tịch Đài Loan là chuyên gia đang thi công xây dựng nhà máy đường ở tỉnh T, lái xe trên đường về nhà máy. Khi đến cầu VB, thì gặp Trần Văn K và Nguyễn Văn T đang đi ngênh ngang trên đường, anh Hồng Quang Vinh bóp còi xin đường, T, K không những không nhường đường mà K còn dùng bã mía ném vào cabin buộc anh V phải dừng xe lại. Khi xe dừng lại, anh Hồng Quang V hỏi K bằng tiếng Đài Loan, nhưng bọn K không hiểu, anh V xô K ngã. Thấy vậy, K và T dùng mía vụt liên tiếp vào người anh V và anh M, rồi nhặt gạch, đá ném và dùng tay chân đấm đá làm anh M bị gãy chân, còn anh V bị gãy tay. K và T bị định tội danh về hai tội: tội cố ý gây thương tích được quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 và tội gây rối trật tự công cộng được quy định tại Điều 318 Bộ luật hình sự 2015. Bằng một hành động phạm tội, K và T đã xâm hại hai khách thể: trật tự, an toàn công cộng và sức khỏe của con người. Đây là trường hợp được định tội danh là phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng xâm hại nhiều khách thể khác nhau, nhưng có cùng một hình thức lỗi cố ý.
Tuy nhiên, thực tiễn định tội danh còn cho thấy, cũng có những trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng xâm hại nhiều khách thể khác nhau, có các hình thức lỗi khác nhau. Ví dụ: Nguyễn Văn A đã có hành vi gây rối trật tự công cộng nơi đường phố và đấm nhiều cú đấm vào mặt K, làm K ngã đập đầu xuống đường bị chấn thương sọ não và đã chết sau đó vài giờ. Nguyễn Văn A đã bị định tội danh và truy tố về hai tội: tội gây rối trật tự công cộng (Điều 318 Bộ luật hình sự 2015) và tội vô ý làm chết người (Điều 128 Bộ luật hình sự 2015). Đối với trường hợp này, lỗi của bị cáo đối với hành động gây rối là cố ý, còn đối với cái chết của K là lỗi vô ý. Khi đấm vào mặt K, bị cáo không thấy trước người bị hại có thể bị ngã đập đầu xuống đường gây nên tử vong mặc dù y cần phải thấy trước và có thể thấy trước được điều đó. Trong trường hợp này, Nguyễn Văn A cũng bị định tội danh là phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng.
* Trong lý luận định tội danh đối với trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng xâm hại nhiều khách thể khác nhau được chia thành hai dạng: phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng xâm hại đến các khách thể cùng loại và trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng xâm hại đến các khách thể khác loại. Thực ra, trong lý luận luật hình sự của nước ta, việc định tội danh đối với hai dạng này được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo ý kiến của chúng tôi, sau khi nghiên cứu thực tiễn định tội danh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thì trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng xâm hại đến các khách thể cùng loại là những trường hợp trong đó các tội phạm cùng xâm phạm những khách thể giống nhau được quy định tại một điều luật của Bộ luật hình sự và được thực hiện bởi hình thức lỗi giống nhau, khi định tội danh trong trường hợp này phải định tội danh là hai tội độc lập. Ví dụ: một người mua bán trái phép chất ma tuý và bị bắt, khi khám nhà phát hiện người đó còn tàng trữ một lượng ma tuý nhất định. Trong trường hợp này, người phạm tội phải bị định tội danh và truy tố về hai tội: tội mua bán trái phép chất ma tuý và tội tàng trữ trái phép chất ma tuý đều theo Điều 354 Bộ luật hình sự 2015. Còn trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng xâm hại đến các khách thể khác loại là những trường hợp mà trong đó các tội phạm xâm phạm đến những khách thể khác nhau được quy định tại các điều luật khác nhau của Bộ luật hình sự và được thực hiện bởi hình thức lỗi giống nhau hoặc khác nhau (xem các ví dụ trên).
Trong một số trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng, hành động có tính chất đơn giản, xảy ra một lần, chẳng hạn như một người đốt nhà nhằm hủy hoại tài sản và tước đoạt tính mạng của người khác, nhưng trong rất nhiều trường hợp, hành động có tính chất phức tạp gồm một chuỗi hành động có mục đích nhất định, có thể xảy ra trong một thời gian dài.
Ví dụ: khi đi dự đám cưới một người bạn, Trịnh Văn T rủ mấy thanh niên cùng làng gây sự với một số thanh niên làng bên cạnh cùng sang dự đám cưới. Hai bên dùng gạch đá ném nhau làm cho những thanh niên làng bên cạnh phải chạy ra khỏi làng. T chạy theo và dùng gậy tre đập vào đầu một thanh niên làng bên cạnh tên là Ph làm cho Ph bị gục ngay tại chỗ. Sau đó, Phong được đưa đi cấp cứu, nhưng do vết thương quá nặng ở đầu, Ph đã chết lúc 3 giờ sáng ngày hôm sau. T bị định tội danh về hai tội: tội giết người được quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự 2015 và tội gây rối trật tự công cộng được quy định tại Điều 318 Bộ luật hình sự 2015. Đây là trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng, bằng một hành động gây rối, Trịnh Văn T đã có hai hành vi phạm tội: hành vi gây rối trật tự công cộng và giết người. Hành động gây rối ở đây (bao gồm cả hành động dùng gậy tre đập đầu Ph) có tính chất phức tạp bao gồm một chuỗi hành động, xảy ra trong một khoảng thời gian tương đối dài. Trong trường hợp này, Trịnh Văn T cũng phải bị định tội danh phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng.