Định hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vô hiệu? Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về hợp đồng vô hiệu?
Mục lục bài viết
1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vô hiệu:
1.1. Cơ sở chính trị:
Hiến pháp 2013 hiện nay khẳng định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế... các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân...”.
Ngoài ra, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định mục tiêu quan trọng đó chính là: Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và định hướng phát triển của Nhà nước. Tập trung tạo dựng thể chế, cơ chế, chính sách và môi trường, điều kiện ngày càng minh bạch, an toàn, thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tự do sáng tạo, đầu tư, kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng trong kinh tế thị trường. Phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ của người dân trong hoàn thiện và thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế – xã hội .
Để hoàn thành được mục tiêu đó vai trò của một nền tư pháp với tính năng linh hoạt, hiệu quả góp một phần không nhỏ. Trong nền kinh tế thị trường định | hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay, người ta thường bàn đến các khoản nợ xấu ngân hàng, dự án lớn bị đắp chiếu, các doanh nghiệp lớn phá sản... mà không nhìn ra được bản chất của các hợp đồng kinh tế hoặc các hợp đồng trong các lĩnh vực khác bị vi phạm. Rõ ràng, trong các dự án lớn đắp chiếu, các khoản nợ xấu hay các doanh nghiệp bị phá sản đã tồn tại các bản hợp đồng được ký kết giữa các bên và có thể có một bên trong quan hệ hợp đồng đã vi phạm dẫn đến hợp đồng bị vô hiệu không thực hiện được.
Không nhắc tới các bên vì sao lại vi phạm cam kết nhưng rõ ràng bên bị thiệt hại có thể yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình. Nhưng nếu vụ việc được giải quyết nhanh chóng nhờ một cơ chế tư pháp hiệu quả thì vấn đề sẽ được giải quyết sớm không để tồn đọng các “khối u” hậu quả như vậy. Có thể nói, bên bị thiệt hại thấy việc khởi kiện ra Tòa án là không khả thi, lý do thủ tục rườm rà, thời gian giải quyết kéo dài nên đã không khởi kiện ra Tòa án. Nền tư pháp đã không được doanh nghiệp tín dụng, hệ quả là các vi phạm hợp đồng bị để đó không được giải quyết triệt để khiến cho các mối quyền lợi, nghĩa vụ bị ùn ứ.
Để quyền, nghĩa vụ và tài sản của các doanh nghiệp được khai thông thì cần đến vai trò của một nền tư pháp với tính năng hiệu quả. Cần hoàn thiện và bảo đảm cơ chế thực thi nghiêm minh, có hiệu quả của pháp luật về hợp đồng, đồng thời nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế giải quyết tranh chấp kinh tế, dân sự, trọng tâm là Tòa án nhân dân các cấp, để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp. Đó cũng chính là chủ trương, đường lối xuyên suốt tại Việt Nam hiện nay.
1.2. Cơ sở kinh tế – xã hội:
Cần phải xây dựng một chế định hợp đồng phù hợp với thực tiễn kinh tế, xã hội. Bởi lẽ, trong đời sống hàng ngày, dù là một người dân lao động bình thường, một người nông dân hay một doanh nhân, doanh nghiệp... thì cũng phải tham gia vào các giao dịch dân sự hay kinh doanh, thương mại hàng ngày. Với những giao dịch đơn giản nhưng giá trị rất lớn như mua sắm hàng tiêu dùng hay lớn hơn là mua bán nhà, đất hoặc tiến hành các hoạt động tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ và tiêu thụ sản phẩm đều cần đến hợp đồng.
Hiện nay, để tăng cường tính pháp lý, pháp luật tại Việt Nam quy định hầu hết các loại giao dịch đều phải thể hiện qua hình thức là hợp đồng. Hợp đồng không những đảm bảo lợi ích cho các bên trong giao kết hợp đồng mà còn dự kiến được những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai để có thể phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn và quy định của pháp luật. Đồng thời, hợp đồng còn là căn cứ pháp lý để giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện giữa các bên. Bên cạnh đó, môi trường sống, hoạt động kinh doanh càng ngày càng chuyển biến theo sự vận hành của xã hội và quy luật phát triển tất nhiên, có những tình huống, những rủi ro
xảy ra mà pháp luật không thể điều chỉnh kịp. Do đó, hợp đồng không chỉ là một quá trình mà còn là một quá trình có điều tiết, trong đó các bên trong hợp đồng nhận diện, đánh giá, phân chia điều tiết rủi ro – quản lý rủi ro, xây dựng một chế định hợp đồng phù hợp với thực tiễn chính là giúp các bên trong giao kết hợp đồng có thể quản lý và dự phòng rủi ro hiệu quả.
Tóm lại, hợp đồng rất quan trọng đối với đời sống kinh tế, xã hội. Thậm chí khi Việt Nam tham gia hội nhập càng sâu rộng với quốc tế thì các giao lưu về dân sự, kinh doanh, thương mại càng nhiều hơn nữa. Vì thế, hợp đồng ngày càng trở thành một công cụ không thể thiếu trong đời sống xã hội. Điều này đòi hỏi hệ thống pháp luật về hợp đồng phải ngày càng hoàn thiện để kịp thời đáp ứng với tình hình kinh tế, xã hội.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về hợp đồng vô hiệu:
2.1. Kiến nghị hoàn thiện về mặt pháp lý:
2.1.1. Giải pháp chung:
Thứ nhất, tác giả cho rằng, cần hoàn thiện các quy định nội dung về của hợp đồng trong BLDS. Đặc biệt trong đó cần chú ý các vấn đề như: Khái niệm hợp đồng, giao kết hợp đồng, phạt hợp đồng, các loại hợp đồng..., thống nhất sự tản mát bằng những quy định cụ thể trong BLDS trở thành luật chung cho các luật chuyên ngành. Các quy định có tính chất chung chỉ nên quy định trong BLDS 2015. Trong BLDS cần có những quy định chung có tính khái quát cao, thể hiện rõ quyền tự do hợp đồng để bảo đảm tính ổn định cao của BLDS sau lần sửa đổi, bổ sung này. Không nên đưa vào BLDS các quy định về các loại hợp đồng chuyên biệt mà để cho các văn bản pháp luật chuyên ngành quy định. Nếu có đưa một loại hợp đồng nào đó vào trong BLDS năm 2015 thì không nên quy định ở văn bản pháp luật khác nữa để tránh trùng lặp, chồng chéo.
Thứ hai, vẫn hoàn thiện quy định hợp đồng trong BLDS nhưng chỉ hoàn thiện những nền móng cơ bản, còn lại các quy định khác trong BLDS và những quy định tản mát thì xây dựng một đạo luật riêng biệt điều chỉnh.
Thứ ba, kết hợp pháp điển hóa nội dung pháp luật hợp đồng với việc bóc
tách quan hệ hợp đồng trong BLDS và thống nhất sự tản mát bằng cách tập hợp các quy định trong các luật chuyên ngành, văn bản dưới luật, sau đó hệ thống lại và xây dựng thành một đạo luật riêng biệt điều chỉnh quan hệ hợp đồng tiến bộ và phù hợp với thông lệ thế giới cũng như các quy định của UNIDROIT (Viện Thống nhất Tư pháp Quốc tế – nghiên cứu, tìm kiếm các quy định chung để điều chỉnh hợp đồng sao cho có thể thích hợp trong nhiều hệ thống pháp luật của những nước khác nhau), gọi là “Luật Hợp đồng thống nhất”.
2.1.2. Xây dựng Luật Hợp đồng:
Tại Việt Nam, BLDS đóng vai trò là Hiến pháp của luật tư và là đạo luật gốc. Từ những quy định chung trong BLDS, các luật chuyên ngành như: Luật Hôn nhân gia đình, Luật Thương mại, Bộ luật Lao động, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh... Vì thế, chế định của hợp đồng cũng cần nâng lên thành một đạo luật. Nói cách khác, cần coi quan hệ hợp đồng là một quan hệ đặc thù và rộng lớn, nên nó phải được điều chỉnh trong một đạo luật riêng biệt. Bởi lẽ, một người dân bình thường không thể làm thay công việc của Luật sư hay Thẩm phán khi chỉ ra rằng hợp đồng này thuộc về dân sự, về thương mại hay đầu tư... Hơn nữa, việc xác định đúng các quan hệ pháp luật tranh chấp không phải việc dễ dàng và rất dễ nhầm lẫn.
Vì vậy, để thuận tiện cho xã hội khi mà quan hệ hợp đồng vốn dĩ đã chi phối hầu hết các quan hệ trong đời sống kinh tế, xã hội và phát sinh mỗi ngày một đa dạng, phức tạp hơn thì có lẽ, việc thống nhất điều chỉnh bằng “Luật Hợp đồng là điều hết sức cần thiết và quan trọng. Theo đó, BLDS sẽ được giản lược, nhẹ đi khá nhiều. Và BLDS sẽ chỉ làm nhiệm vụ điều chỉnh những vấn đề chung về các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân mà không điều chỉnh các quan hệ về hợp đồng nữa.
Có thể nói, “Luật Hợp đồng” là luật chỉ điều chỉnh về tất cả các quan hệ hợp đồng. Xét về khía cạnh hợp đồng, dù các quốc gia khác cố gắng định nghĩa hợp đồng như thế nào đi chăng nữa thì đều dựa vào một bản chất duy nhất nói lên sự tồn tại của hợp đồng, đó là sự thỏa thuận. Từ sự thỏa thuận, các quốc gia cố gắng điều chỉnh nó bằng những kỹ thuật lập pháp của riêng mình. Vì vậy, tác giả cho rằng, cần quy định một đạo luật mang tên là Luật Hợp đồng trong đó chỉ điều chỉnh các quy định về hợp đồng.
2.2. Một số kiến nghị:
Thứ nhất, hợp đồng sinh ra là để tồn tại và thực hiện chứ không phải để bị tuyên bố vô hiệu. Như vậy, để hạn chế việc Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu khi bên có nghĩa vụ phải cung cấp thêm các thông tin vi phạm nghĩa vụ mà BLDS năm 2015 đã loại bỏ quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu của bên bị vi phạm khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin nhưng bên vi phạm vẫn phải bồi thường thiệt hại. Việc cho rằng không phải trường hợp nào việc không cung cấp thông tin cũng ảnh hưởng đến sự tồn tại của hợp đồng và để BLDS năm 2015 loại bỏ quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu của bên bị vi phạm khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin là chưa phù hợp.
Bởi lẽ, việc bên có nghĩa vụ cung cấp thông tin nhưng lại không cung cấp và thông tin này ảnh hưởng đến quyết định của bên bị vi phạm là có giao kết hợp đồng hay không rõ ràng đã có dấu hiệu cố ý làm cho hợp đồng bị vô hiệu ở dạng không hành động, khi giao kết hợp đồng nên trong trường hợp này nếu bên bị vi phạm có yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối là hoàn toàn phù hợp.
Do đó, tại Điều 127 của BLDS năm 2015 cần quy định thêm trường hợp khi một bên trong hợp đồng vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối và để hạn chế việc hợp đồng bị tuyên vô hiệu do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin thì trong hợp đồng dân sự bình thường, nếu thông tin được công bố công khai thì mỗi bên giao dịch phải tự mình khai thác để nắm thông tin chứ không thể dựa dẫm vào bên kia .
Tác giả cho rằng, Điều 127 của BLDS năm 2015 cần quy định rõ im lặng là hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng. Khi bên im lặng biết bên giao kết của mình | bị nhầm nhưng vẫn im lặng để bên kia giao kết hợp đồng với mình nhằm hưởng lợi vì im lặng cũng là một dạng hành vi lừa dối ở dạng không hành động. Việc không quy định rõ ràng sẽ dẫn đến cách hiểu khác nhau của các Thẩm phán khi nhận định yếu tố lừa dối trong giao kết hợp đồng để xem xét có tuyên vô hiệu hay không? Do đó, tác giả cho rằng, tại Điều 127 của BLDS năm 2015 nên quy định rõ ràng việc cố ý im lặng hoặc không cung cấp thông tin đầy đủ khi có nghĩa vụ cung cấp thông tin cũng là hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng. Quy định này là cần thiết, bởi lẽ, nếu không quy định như vậy bên lừa dối sẽ cố tình không đưa ra những thông tin cần thiết nhằm hưởng lợi trong việc giao kết hợp đồng.
Thứ hai, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần có một án lệ về hợp đồng vô hiệu. Bởi lẽ, án lệ về bản chất là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng thống nhất trong xét xử. Án lệ được sử dụng trong những vụ án có tình tiết về sự kiện pháp lý giống nhau để thống nhất giải quyết vụ án đúng pháp luật.
Đây cũng là những vụ án được Tòa án nhân dân tối cao chọn lọc qua các quy trình xét duyệt để trở thành vụ án mẫu mực, áp dụng cho các Thẩm phán giải quyết những vụ án có tình tiết tương tự. Án lệ mang tính thực tiễn cao, có khả năng khắc phục những lỗ hổng pháp luật một cách nhanh chóng và kịp thời, đồng thời, việc áp dụng pháp luật khi giải quyết vụ án cũng sẽ nhất quán hơn không có kiểu người hiểu thế này người hiểu thế khác dẫn đến việc giải quyết vụ án cũng theo các chiều hướng khác nhau. Tính đến thời điểm hiện tại, Tòa án nhân dân tối cao đã công bố khá nhiều án lệ nhưng chưa có án lệ nào giải quyết cụ thể về từng trường hợp cụ thể theo quy định tại Điều 122 của BLDS năm 2015 về hợp đồng vô hiệu.
Việc có ít nhất một án lệ về hợp đồng vô hiệu sẽ giúp ích cho quá trình giải quyết vụ án của Tòa án các cấp, việc áp dụng pháp luật cũng sẽ được thống nhất, không mất nhiều thời gian giải quyết vụ án tránh để vụ án bị kéo dài. Đồng thời, khi đã có án lệ về giải quyết hợp đồng vô hiệu thì khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu áp dụng án lệ giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau.
Bởi vì, qua thực tiễn xét xử việc Tòa án xác định tình tiết, sự kiện pháp lý của vụ việc mình đang giải quyết tương tự với tình tiết, sự kiện pháp lý của án lệ không phải là vấn đề đơn giản, có trường hợp mặc dù cùng một tình tiết nhưng Tòa án này cho rằng tình tiết đó tương tự với án lệ nên áp dụng án lệ, Tòa án khác lại cho rằng tình tiết đó khác với tình tiết án lệ nên không áp dụng án lệ. Điều này có thể dẫn đến việc áp dụng án lệ trở nên không thống nhất.
Do đó, ngoài việc cần có một án lệ về giải quyết hợp đồng vô hiệu cần phải có những giải pháp kèm theo đề án lệ này có thể được áp dụng một cách thống nhất trên thực tế. Cụ thể như là: Khi công bố án lệ nên theo hướng công bố toàn bộ nội dung bản án, quyết định của Tòa án được lựa chọn làm án lệ để không bỏ sót các tình tiết cơ bản của bản án, quyết định được lựa chọn làm án lệ. Mặt khác, nên mở các khóa đào tạo về kỹ năng xác định tình tiết tương tự cho các Thẩm phán để áp dụng án lệ một cách thống nhất.
Tác giả cho rằng, trong thời gian tới việc ban hành án lệ và áp dụng án lệ sẽ trở nên phổ biến hơn. Bởi vì, xã hội Việt Nam ngày càng phát triển và có những tranh chấp xảy ra mà pháp luật chưa thể dự liệu trước được nên việc ban hành án lệ để điều chỉnh, xử lý những loại tranh chấp đó là cần thiết, nhanh chóng và hiệu quả. Việc ban hành án lệ cũng sẽ nhanh chóng, ít mất thời gian và tiền bạc hơn là sửa đổi, bổ sung các bộ luật. Do đó, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng án lệ vào việc giải quyết các tranh chấp tại Tòa án là rất cần thiết.
Thứ ba, tại khoản 3, Điều 131 của BLDS năm 2015 về hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu quy định: “Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó”. Từ quy định này có thể hiểu là từ nay khi giải quyết hợp đồng vô hiệu không được tịch thu tài sản giao dịch, không tịch thu hoa lợi, lợi tức từ hợp đồng vô hiệu. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ đối tượng của hợp đồng bên nào sẽ được hưởng phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để quyết định. Nghĩa là bên đã nhận đối tượng của hợp đồng, trong thời gian hợp đồng chưa bị tuyên bố vô hiệu, thời gian chưa giao trả tài sản mà phát sinh hoa lợi, lợi tức từ đối tượng của hợp đồng thì bên đang quản lý, chiếm hữu hoa lợi, lợi tức đó sẽ được hưởng, nếu là người ngay tình.
Còn nếu khi thực hiện hợp đồng không ngay tình (ví dụ: thực hiện thủ đoạn lừa dối để giao kết hợp đồng) thì việc chiếm hữu đối tượng của hợp đồng là không ngay tình, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ đối tượng của hợp đồng mà người này đang chiếm hữu cũng không ngay tình. Trong trường hợp này, bên không ngay tình khi xác lập hợp đồng, việc chiếm hữu vật của chủ thể này cũng không ngay tình, sau đó, hợp đồng này bị Tòa án tuyên bố vô hiệu thì bên không ngay tình ngoài việc phải hoàn trả những gì đã nhận còn phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức đó.
Tuy nhiên, nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án nếu Tòa án căn cứ theo quy định tại khoản 3, Điều 131 của BLDS năm 2015 chỉ phán quyết dừng lại ở việc bên không ngay tình phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó thì có thể sẽ không đúng, việc xem xét giải quyết vụ án chưa toàn diện. Bởi lẽ, để có được hoa lợi đó, phần giá trị lớn hơn từ khi hoa lợi đó được sản sinh ra có phần chi phí, công sức của người thu hoa lợi.
Vì vậy, khi Tòa án buộc họ trả lại hoa lợi cần xem xét công sức, chi phí mà họ đã bỏ ra để buộc bên được nhận hoa lợi này thanh toán công sức, chi phí này cho họ nếu họ có yêu cầu. Do đó, theo tác giả, tại khoản 3, Điều 131 của BLDS năm 2015 nên quy định rõ trong trường hợp bên không ngay tình phải trả lại hoa lợi, lợi tức thì phải xem xét buộc bên nhận lại hoa lợi, lợi tức thanh toán công sức, chi phí đã tạo ra hoa lợi, lợi tức cho bên không ngay tình nếu họ có yêu cầu.
Thứ tư, khi giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu thì một trong những vấn đề quan trọng là phải xác định được mức độ lỗi của các bên làm cho hợp đồng vô hiệu để có mức bồi thường tương xứng với mức độ lỗi của mình. Nhưng thực tế trong thời gian qua, kể từ khi BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành cho đến nay, vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thể về vấn đề này mà đa phần dựa vào việc đánh giá chứng cứ do các bên cung cấp của Thẩm phán khi giải quyết vụ án. Mặt khác, những hướng dẫn chi tiết trước đây lại chỉ áp dụng đối với hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu mà các hợp đồng khác không được dẫn chiếu.
Do đó, thiết nghĩ cần có một văn bản hướng dẫn việc xác định yếu tố lỗi, các khoản cần phải bồi thường trong hợp đồng vô hiệu được sử dụng chung cho tất cả các loại hợp đồng, không biết đó là loại hợp đồng gì khi bị tuyên vô hiệu thì việc xử lý hậu quả của nó ngoài việc căn cứ vào quy định của BLDS năm 2015 sẽ căn cứ vào văn bản pháp luật này để xử lý, đồng thời nên bổ sung quy định xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định theo mức độ lỗi của mỗi bên, trừ trường hợp cả hai bên đều có lỗi tương đương nhau làm cho hợp đồng vô hiệu thì mỗi bên chịu trách nhiệm k giá trị thiệt hại. Trong trường hợp có sự chênh lệch giá mà phát sinh thiệt hại thì bên có lỗi phải bồi thường khoản tiền chênh lệch cho bên bị thiệt hại”. Việc quy định cụ thể, rõ ràng như vậy sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật của các Thẩm phán được thống nhất hơn, giải quyết nhanh chóng vụ án, bảo đảm được quyền và lợi ích chính đáng của các bên khi tham gia hợp đồng.
Cũng trong quy định xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu, tác giả cho rằng nhóm hành vi lừa dối, giả tạo, đe dọa, cưỡng ép... ngoài việc khiến hợp đồng vô hiệu nó còn vi phạm về mặt đạo đức, khi giao kết hợp đồng do bị lừa dối thì rõ ràng một bên trong hợp đồng họ đã rất tin tưởng đặt hết niềm tin và hy vọng vào việc ký kết hợp đồng này để đạt được mục đích mà họ hướng tới, trong khi đó bên lừa dối họ đã cố ý gian dối khi ký kết hợp đồng để hưởng lợi.
Do đó, pháp luật cần quy định rõ ngoài việc bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường cần quy định rõ tại khoản 4, Điều 131 của BLDS năm 2015 bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường về vật chất và bồi thường thiệt hại về tinh thần cho bên bị lừa dối (nếu có yêu cầu) và trong trường hợp này bên bị lừa dối không cần thiết phải chứng minh thiệt hại về tinh thần vì việc chứng minh thiệt hại về tinh thần trên thực tế là một điều rất khó khăn, rắc rối, phức tạp, nếu cho rằng việc quy định như vậy sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của bên lừa dối, bảo vệ tối ưu cho bên bị lừa dối thì theo tác giả lại cho rằng việc quy định rõ ràng trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần cho bên bị lừa dối khi bên bị lừa dối có yêu cầu là một việc chuẩn xác, bên lừa dối không muốn phải bồi thường nhiều khoản thiệt hại thì ngay từ khi giao kết bên lừa dối phải trung thực đừng sử dụng hành vi lừa dối để bên bị lừa dối tin tưởng ký kết hợp đồng và gây thiệt hại cho bên bị lừa dối.
Việc quy định như vậy sẽ thể hiện được tính răn đe cao của pháp luật, các chủ thể khi tham gia ký kết hợp đồng nếu có ý định dùng hành vi lừa dối để bên kia ký kết hợp đồng với mình thì cũng sẽ e dè hơn, từ đó, có thể hạn chế được tình trạng các hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do lừa dối.
Thứ năm, cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong nhân dân. Khuyến khích họ tuân thủ các quy định của pháp luật, tự bảo vệ các quyền lợi chính đáng của chính mình và của người khác. Từ đó, góp phần hạn chế được việc xác lập các hợp đồng bị vô hiệu. Việc tuyên truyền phải được thực hiện theo kế hoạch cụ thể, sử dụng phối hợp các phương pháp, hình thức khác nhau để việc tuyên truyền đạt hiệu quả. Trong thời gian qua, thực tiễn tuyên truyền pháp luật cho người dân trong ngành Tòa án thuộc tỉnh Đồng Tháp thường là phát tờ bướm tuyên truyền những việc phát tờ bướm này chưa chắc người dân đã hiểu hết nội dung quy định của pháp luật, đồng thời, cũng không thể liệt kê ra được tất cả các vấn đề mà pháp luật quy định.
Ngoài việc phát tờ bướm thì Tòa án cũng tổ chức các phiên tòa giả định, các phiên tòa lưu động để tuyên truyền pháp luật cho người dân nhưng tất cả đều là những vụ án hình sự. Thiết nghĩ, nếu ngành Tòa án tổ chức các phiên tòa giả định về các tranh chấp dân sự phức tạp nói chung và tranh chấp về hợp đồng vô hiệu nói riêng thì việc tuyên truyền pháp luật sẽ đạt được hiệu quả tốt hơn.
Người dân khi trực tiếp chứng kiến một phiên tòa giả định về hợp đồng vô hiệu, họ sẽ biết được thế nào là vô hiệu khi giao kết hợp đồng, hậu quả pháp lý khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu là gì? và việc xử lý hậu quả pháp lý sẽ như thế nào? Từ đó, người dân sẽ nâng cao sự hiểu biết của mình, để tự ý thức được việc tuân thủ pháp luật sẽ mang lại lợi ích cho họ hơn là sử dụng những thủ đoạn gian dối, người dân cũng sẽ nâng cao được tính tỉ mỉ, thận trọng hơn trong việc giao kết các hợp đồng.
Thứ sáu, trong trường hợp thông tin được công bố công khai thì mỗi bên trong giao kết hợp đồng phải tự mình khai thác các nguồn công khai để nắm thông tin chứ không thể chỉ dựa dẫm vào bên đối tác. Nhưng thật ra, vấn đề này ở nước ta chỉ được ghi nhận về mặt lý thuyết, việc tiếp cận của công chúng đối với các nguồn thông tin lưu giữ tại các định chế công quyền chưa được pháp lý hóa rõ ràng. Do đó, để thực hiện tốt vấn đề này ngoài việc người tham gia ký kết hợp đồng nên tự nâng cao sự hiểu biết pháp luật, nâng cao trình độ của mình để có thể tiếp cận và hiểu các nguồn thông tin này một cách chính xác thì pháp luật cần quy định cụ thể, rõ ràng và có thể thực thi hiệu quả vấn đề về các nguồn thông tin lưu giữ tại các chế định công quyền.
Thứ bảy, trong quá trình thành lập và hoạt động của mình, việc giao kết hợp đồng đặc biệt là hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại là yếu tố không thể thiếu của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải mọi doanh nghiệp đều có thể nhận thức và áp dụng đúng đắn những quy định của pháp luật. Vì thế, có rất nhiều tranh chấp phát sinh từ quá trình giao kết hợp đồng. Điển hình là về chủ thể ký kết hợp đồng, trong một doanh nghiệp thì việc ký hợp đồng sẽ được giao cho người đại diện thực hiện.
Theo quy định của pháp luật thì có hai loại đại diện: đại diện đương nhiên theo pháp luật và đại diện theo uỷ quyền. Tuy nhiên, trên thực tế thường do nhân viên cấp dưới ký hợp đồng nhưng lại không hề có giấy ủy quyền. Nếu giữa hai bên giao kết hợp đồng thuận lợi thì không nói làm gì. Nhưng chẳng may có tranh chấp xảy ra thì chính việc giao cho người không đúng thẩm quyền ký kết lại khiến cho hợp đồng có thể bị vô hiệu. Do đó, các doanh nghiệp ngoài việc phải tăng cường khả năng hiểu biết pháp luật thì cũng phải tăng cường tính tỉ mỉ, tăng cường việc kiểm tra các nguồn thông tin chính xác của đối tác trước khi giao kết hợp đồng.
Thứ tám, BLDS năm 2015 cần sớm bổ sung khái niệm thế nào là người thứ ba ngay tình. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn giải thích rõ về thuật ngữ “ngay tình” và những điều kiện, dấu hiệu để nhận diện chính xác người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự, tránh trường hợp các chủ thể lợi dụng quy định của pháp luật về bảo vệ người thứ ba ngay tình nhằm tạo ra các giao dịch giả tạo để trục lợi.
Thứ chín, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể về trường hợp người mua được tài sản từ bán đấu giá trong trường hợp việc bán đấu giá vi phạm thủ tục đấu giá để có sự thống nhất về đường lối giải quyết.
Thứ mười, pháp luật cần có những hướng dẫn cụ thể về việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng khi tham gia giao dịch với người thứ ba ngay tình như tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán, vàng bạc có giá trị lớn để từ đó có những giới hạn nhất định cho các bên tham gia giao dịch nhằm bảo đảm quyền lợi của vợ (chồng) cũng như quyền lợi của các thành viên khác trong gia đình.