Điều kiện về chủ thể đăng ký kinh doanh là gì? Cá nhân, tổ chức cần có những điều kiện gì khi đăng ký kinh doanh? Muốn làm giám đốc cần đáp ứng điều kiện gì?
Kinh doanh là một trong những hoạt động phong phú nhất của loài người. Con người cố gắng tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu nhân loại đem trao đổi và thu được một giá trị lớn hơn cái mà mình đã bỏ ra. Do vậy, ý tưởng tham gia sản xuất, trao đổi, phân phối, lưu thông hàng hóa đã thúc đẩy con người có ý thức làm giàu và hoạt động chuyên nghiệp hơn, họ được gọi là những “chủ thể hoạt động kinh doanh”.
Với mục đích đảm bảo quyền tự do kinh doanh, đồng thời huy động tối đa mọi nguồn vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh, pháp luật kinh doanh Việt Nam hiện nay quy định một phạm vi rất rộng cho các chủ thể kinh doanh có nhu cầu khởi sự doanh nghiệp, cụ thể
Có thể thấy chủ thể hoạt động kinh doanh khi có nhu cầu khởi sự hoạt động kinh doanh hướng đến việc tìm kiếm lợi nhuận là mục đích chính. Vì vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích cho chính các chủ thể kinh doanh, công tác quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích cộng đồng, người tiêu dùng, môi trường kinh doanh thuận lợi đòi hỏi mỗi một chủ thể kinh doanh phải thỏa mãn những điều kiện nhất định thì mới được tham gia hoạt động kinh doanh.
Mục lục bài viết
1. Đối với chủ thể kinh doanh là tổ chức:
Một tổ chức muốn thành lập doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện sau: Đầu tiên, tổ chức phải được thành lập hợp pháp theo trình tự, thủ tục luật định.
Thứ hai, tổ chức phải có tài sản riêng để thực hiện các hoạt động kinh doanh độc lập, đây là cơ sở vật chất không thể thiếu được để các tổ chức thực hiện được quyền và nghĩa vụ tài sản đối với bên cùng quan hệ và là dấu hiệu cơ bản của pháp nhân. Cuối cùng, tổ chức đó phải có thẩm quyền kinh doanh, nghĩa là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ trong kinh doanh mà pháp luật ghi nhận tương ứng với chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động của chủ thể.
Ngoài đối tượng tham gia hoạt động kinh doanh thương mại là cá nhân hay còn được gọi là “thể nhân” thì còn có chủ thể kinh doanh là pháp nhân là doanh nghiệp thì phải đáp ứng đủ các điều kiện để thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp và các luật chuyên ngành như tài sản, tên gọi, địa chỉ, ngành nghề kinh doanh,… về một thực thể mang tính hội đoàn, thường dùng trong hoạt động kinh doanh thương mại cùng biểu lộ ý chí chung, trở thành chủ thể của các quyền và được pháp luật công nhận, bảo vệ những lợi ích hợp pháp của mình.
Pháp nhân ra đời với tư cách là một chủ thể hoạt động kinh doanh thương mại có tài sản riêng độc lập với tài sản của các thành viên, có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt, chịu trách nhiệm về hành vi kinh doanh của mình bằng tài sản. Với tiêu chí này dùng để xác định pháp nhân là chủ thể hoạt động kinh doanh.
Hiện nay pháp luật các quốc gia quy định và tạo điều kiện cho các chủ thể hoạt động kinh doanh có tư cách pháp nhân là một điều hết sức cần thiết bởi việc sinh ra một pháp nhân hoạt động kinh doanh vừa mang yếu tố phát triển của một nền kinh tế đồng thời vừa mang yếu tố xã hội mà ngày nay người ta hay đánh giá vai trò xã hội của doanh nghiệp.
Theo Điều 75 Bộ Luật dân sự 2015 quy định về pháp nhân thương mại như sau: “Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên; Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác”.
Ngoài ra, pháp nhân là doanh nghiệp muốn thành chủ thể kinh doanh khi thỏa mãn các điều kiện tại Điều 74 Bộ Luật dân sự 2015:
+ Phải được thành lập hợp pháp: Việc thành lập hợp pháp cũng có thể hiệu như quy định tại Khoản 1 Điều 94
+ Có cơ cấu tổ chức quản lý chặt chẽ:
Pháp nhân phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, các bộ phận bên trong phải là một chỉnh thể thống nhất với cơ cấu, mô hình thống nhất theo quy định của pháp luật, tương ứng với từng loại pháp nhân. Thống nhất về tổ chức được quy định trong quyết định thành lập, trong điều lệ mẫu, trong các văn bản pháp luật, trong điều lệ của từng loại tổ chức hay từng tổ chức đơn lẻ. Ví dụ: Theo Luật doanh nghiệp 2020, pháp nhân là công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc (hoặc Tổng Giám đốc) và Ban kiểm soát trong trường hợp công ty có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% số vốn điều lệ của công ty; pháp nhân là công ty TNHH một thành viên do một cá nhân làm chủ sở hữu phải có Chủ tịch công ty và Giám đốc (hoặc Tổng Giám đốc).
Pháp nhân phải là một tổ chức độc lập. Pháp nhân có ý chí riêng và hành động theo ý chí của riêng mình, không bị chi phối bởi các chủ thể khác khi quyết định và thực hiện các công việc có liên quan đến nhiệm vụ của tổ chức. Sự tồn tại của pháp nhân không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên của pháp nhân hoặc thay đổi các bộ phận chức năng của pháp nhân. Ví dụ: Trong công ty cổ phần, sự thay đổi các cổ đông hay sự sắp xếp lại, thêm, bớt các phòng chức năng, bộ phận sản xuất,… không ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty đó.
+ Có tài sản độc lập với tổ chức, cá nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó
Điều kiện trên bao gồm 2 ý: Thứ nhất, pháp nhân là doanh nghiệp phải có “tài sản độc lập” với tổ chức, cá nhân khác; thứ hai, pháp nhân phải “tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó”, nghĩa là tự chịu trách nhiệm cho hành vi của pháp nhân bằng khối tài sản của mình. Hai ý này tuy có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nhưng cũng có sự độc lập nhất định về mặt pháp lý, tạo thành điều kiện về tài sản của pháp nhân.
Để có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể độc lập thì tổ chức phải có tài sản nhất định. Tài sản của pháp nhân độc lập với tài sản của các thành viên của pháp nhân và cơ quan chủ quản của pháp nhân, độc lập với tài sản của các tổ chức và cá nhân khác. Tài sản của pháp nhân có thể hình thành do sự đóng góp của các thành viên, hình thành trong quá trình hoạt động, được tặng, cho hoặc được nhà nước giao quyền quản lý tài sản của nhà nước,…
Ví dụ: Khi thành lập các công ty theo quy định của LDN 2020, tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn phải làm các thủ tục để chuyển quyền sở hữu động sản hay bất động sản dùng làm tài sản góp vốn cho công ty. Tài sản của công ty bao gồm phần vốn góp của các thành viên, lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh và các tài sản hợp pháp khác.
Trên cơ sở có tài sản riêng, pháp nhân phải chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Các thành viên của pháp nhân, cơ quan chủ quản của pháp nhân hay bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khác không phải dùng tài sản của mình để chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân. Ngược lại, pháp nhân cũng không phải chịu trách nhiệm thay cho cơ quan chủ quản, các tổ chức, cá nhân khác hay thành viên của pháp nhân. Ví dụ: Công ty TNHH một thành viên do một cá nhân làm chủ sở hữu thì chủ sở hữu phải xác định và tách biệt tài sản của công ty với tài sản của cá nhân, tách biệt các chi tiêu của cá nhân và gia đình mình với các chi tiêu trên cương vị là Chủ tịch công ty và Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc. Đồng thời, công ty tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình bằng tài sản của công ty, còn chủ sở hữu công ty chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty.
Một trong những yếu tố quan trọng để phân biệt tổ chức có tư cách pháp nhân hay không, đó là căn cứ vào tính độc lập của khối tài sản của tổ chức đó. Tổ chức có tư cách pháp nhân phải là tổ chức mà tài sản của nó phải độc lập với tài sản của các cá nhân, tổ chức khác và khi tham gia các giao dịch dân sự, tổ chức đó phải tự chịu trách nhiệm về tài sản trong phạm vi khối tài sản của mình.
Chính vì vậy, từ Luật Doanh nghiệp 2014 và đến nay tại Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã quy định “tổ chức không có tư cách pháp nhân” không được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp. Quy định trên là hợp lý bởi vì tổ chức không có tư cách pháp nhân là đã thiếu đi một nội dung quan trọng, đó là: Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Do đó, tổ chức không có tư cách pháp nhân không đủ điều kiện để thành lập và quản lý doanh nghiệp. Pháp luật quy định các chủ thể này không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp nhằm tránh rủi ro kinh doanh cho đối tác, bạn hàng và cho chính họ, gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
+ Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập: Với điều kiện là một pháp nhân có tài sản riêng nên việc tách bạch tài sản tạo điều kiện cho pháp nhân có đủ khả năng để hưởng, tự mình thực hiện các quyền và chịu nghĩa vụ khi tham gia các quan hệ kinh doanh. Do đó mọi thành viên trong pháp nhân thống nhất về mặt ý chí trong việc sử dụng khối tài sản đó tạo thành “ý chí” của pháp nhân, tức là trao cho pháp nhân một tư cách để pháp nhân “nhân danh” chính mình tham gia các quan hệ kinh doanh.
Như vậy, pháp nhân là doanh nghiệp luôn thống nhất, độc lập, hợp pháp có tài sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Việc quy định điều kiện để chủ thể là pháp nhân khi trở thành chủ thể hoạt động kinh doanh thương mại để yêu cầu chủ thể đó hoạt động kinh doanh phải hoạt động đúng mục đích, khi thay đổi mục đích kinh doanh phải xin phép đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập để hưởng quy chế pháp lý pháp nhân.
Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bổ sung quy định về tổ chức là pháp nhân không được phép thành lập, quản lý doanh nghiệp, đó là: “Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự.” Những tổ chức bị cấm kinh doanh trong quy định trên là những pháp nhân thương mại phạm tội. Đây là lần đầu, pháp luật hình sự nước ta quy định pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự đối với một số tội do pháp luật quy định. Việc cấm kinh doanh là một trong những hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại phạm tội, hạn chế rủi ro trong kinh doanh cho đối tác, bạn hàng và ảnh hưởng đến nền kinh tế.
2. Đối với chủ thể kinh doanh là cá nhân:
Quyền tự do kinh doanh là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật Việt Nam ghi nhận tại các văn bản có giá trị pháp lý cao nhất như Hiến pháp hoặc các văn bản pháp luật chuyên ngành. Do đó, quyền thành lập doanh nghiệp của cá nhân là một trong những nội dung của quyền tự do kinh doanh được nhà nước bảo hộ. Để đảm bảo là một chủ thể kinh doanh là cá nhân khi muốn thực hiện hành vi kinh doanh thỏa mãn các điều kiện như:
Thứ nhất, là năng lực pháp lý của chủ thể, được quy định tại Điều 16 và Điều 19 Bộ luật Dân sự 2015 bao gồm: độ tuổi, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình), quốc tịch (công dân trong nước hay công dân nước ngoài…); lý lịch tư pháp (có phạm tội không, có bị cấm kinh doanh không…). Việc quy định cá nhân là chủ thể kinh doanh phải đáp ứng đầy đủ điều kiện về năng lực pháp lý là hết sức quan trọng. Bởi khi thực hiện các hoạt động kinh doanh là chủ thể đang tham gia vào các quan hệ pháp luật, chủ thể là cá nhân phải luôn biết xác lập nên quyền và nghĩa vụ, biết hưởng quyền, khả năng gánh chịu hậu quả do hành vi của mình gây ra.
Đối với chủ thể kinh doanh là cá nhân, điều kiện đầu tiên áp dụng là độ tuổi. Pháp luật Việt Nam quy định cá nhân có quyền góp vốn thành lập doanh nghiệp khi đủ 18 tuổi, đồng thời cá nhân đó phải có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi, nghĩa là chủ thể có khả năng nhận được hành vi của mình và chịu trách nhiệm về hành vi của mình theo quy định của pháp luật hiện hành. Thương trường là nơi diễn ra mọi hoạt động kinh doanh, nếu một chủ thể kinh doanh chưa đạt được độ tuổi nhất định, không có năng lực pháp lý thì không thể thực hiện hoạt động kinh doanh được. Do đó, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã quy định người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi không thể trở thành chủ thể kinh doanh. Một điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 2020 với
Thứ hai, là khả năng tài chính (điều kiện về vốn, có đang lâm vào tình trạng phá sản không?), đối với những ngành nghề có điều kiện đòi hỏi chủ thể kinh doanh phải thỏa mãn những điều kiện kinh doanh đó.
Nếu như năng lực hành vi dân sự là điều kiện cần để cá nhân có thể trở thành chủ thể kinh doanh thì Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là điều kiện đủ để cá nhân có đủ tư cách pháp lý của nhà kinh doanh. Chỉ sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cá nhân mới có năng lực pháp luật trong quan hệ kinh doanh. Khi thực hiện hoạt động kinh doanh cá nhân sẽ tham gia vào quan hệ kinh doanh và trở thành chủ thể kinh doanh.
Ngoài ra, pháp luật đăng ký kinh doanh quy định chủ thể kinh doanh phải đăng ký quốc tịch cho doanh nghiệp. Quốc tịch của doanh nghiệp là quốc tịch của nước, vùng lãnh thổ nơi doanh nghiệp thành lập, đăng ký kinh doanh.
Bên cạnh đó, một số chủ thể khác mặc dù đầy đủ năng lực hành vi nhưng do đặc thù nghề nghiệp hoặc chức vụ mà họ đảm nhiệm khi thực hiện kinh doanh có thể làm phát sinh hành vi tiêu cực hoặc những sự cạnh tranh không lành mạnh, thiếu bình đẳng đe dọa lợi ích của chủ thể khác thì họ cũng bị pháp luật cấm kinh doanh:
+ Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình.
Những cơ quan nêu trên có thể hiểu là cơ quan thực hiện chức năng chuyên môn của Nhà nước, cơ quan có tính chất, nhiệm vụ đặc biệt được giao nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh, quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội, do đó các cơ quan này không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp bởi nếu cho các cơ quan này tham gia kinh doanh sẽ dẫn đến hiện tượng quyền lực chính trị thao túng nền kinh tế, dẫn đến không có sự bình đẳng trong kinh doanh.
+ Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức.
Nội dung này cũng được quy định chi tiết tại Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019); Luật Viên chức 2010 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019); và đặc biệt Luật Phòng, chống tham nhũng 2018.
Theo quy định, tại Điều 20 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 thì người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị không được:
Thành lập, tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp danh, hợp tác xã; Thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã thuộc lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý trong thời hạn nhất định.
Cũng theo quy định tại Điều 20 Luật Phòng, chống tham nhũng thì không chỉ công chức không được làm giám đốc doanh nghiệp mà người thân của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cũng không được:
Giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán, thủ quỹ, thủ kho trong cơ quan, tổ chức, đơn vị của những người này; Giao dịch, mua bán hàng hóa, dịch vụ, ký kết hợp đồng với cơ quan, tổ chức, đơn vị của những đối tượng này; Kinh doanh trong phạm vi ngành, nghề do những người này trực tiếp quản lý….
Như vậy, nếu công chức là người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu trong cơ quan, đơn vị thì người thân gồm vợ, chồng, bố, mẹ, con cũng không được làm giám đốc của doanh nghiệp kinh doanh các lĩnh vực, ngành nghề mà người đó trực tiếp quản lý.
Đồng thời tại Khoản 3, Điều 14, Luật Viên chức về quyền của viên chức về hoạt động kinh doanh và làm việc ngoài thời gian quy định:
Được góp vốn nhưng không tham gia quản lý, điều hành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác.
Quy định như trên là hoàn toàn hợp lý vì công chức, viên chức là những người làm việc trong cơ quan Nhà nước. Trong nhiều trường hợp, họ sẽ giữ vai trò quản lý Nhà nước trong ngành, nghề, lĩnh vực nhất định. Với vị trí và lợi thế đó, việc không cho phép công chức, viên chức thành lập doanh nghiệp nhằm ngăn chặn tình trạng tiêu cực, phòng tránh tham ô, tham nhũng, lạm quyền, đảm bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp và không phương hại đến lợi ích chung của xã hội.
+ Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc quản lý tại doanh nghiệp nhà nước. Các chủ thể nêu trên đều thực hiện chức năng nghiệp vụ liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Lợi ích quốc gia, dân tộc luôn được đặt lên hàng đầu, tuyệt đối tôn trọng, vì vậy, việc cấm các chủ thể trên thành lập và quản lý doanh nghiệp là tránh sự lấn át của quyền lực chính trị đối với lĩnh vực kinh tế, biến việc kinh doanh thành công cụ lạm quyền và tham nhũng, đồng thời nâng cao sự tập trung trong thực hiện công vụ. So sánh với Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020 bổ sung thêm đối tượng là “công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam (trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp)”.
+ Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác.
Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 cũng quy định cấm các thành viên giữ các chức danh, chức vụ quản lý trong DNNN như sau:
Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Giám đốc, Phó Giám đốc, Kế toán trưởng và người giữ chức danh, chức vụ quản lý khác trong doanh nghiệp nhà nước không được ký kết hợp đồng với doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột; cho phép doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột tham dự các gói thầu của doanh nghiệp mình; bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán, làm thủ quỹ, thủ kho trong doanh nghiệp hoặc giao dịch, mua bán hàng hóa, dịch vụ, ký kết hợp đồng cho doanh nghiệp.
+ Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật Phòng, chống tham nhũng. Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh.
Các đối tượng này không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp vì quyền tự do của họ đã bị hoặc có thể bị hạn chế. Nếu để họ kinh doanh sẽ ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư, phá vỡ trật tự trong kinh doanh, phương hại cho xã hội, khách hàng.
Tóm lại, việc phân chia các chủ thể đăng ký kinh doanh như trên là căn cứ vào đặc điểm và tính chất pháp lý, kinh tế mà từ đó phân biệt và lường trước những vấn đề và yêu cầu liên quan đến trình tự, thủ tục cần thiết khi đăng ký kinh doanh, xuất phát từ đặc điểm của từng loại chủ thể.