Điều kiện, thủ tục bảo lãnh tại ngoại? Thời gian tại ngoại là bao lâu? Những lưu ý khi làm thủ tục bảo lãnh tại ngoại theo quy định mới nhất.
Trong quá trình điều tra hay trong giai đoạn truy tố luật quy định cho phép cơ quan điều tra, viện kiểm sát ra quyết định tạm giam đối với bị can để phục vụ công tác điều tra, tránh tình trạng bị can bỏ trốn, không phối hợp với cơ quan điều tra hay viện kiểm sát. Tuy nhiên việc tạm giam chỉ được thực hiện khi có căn cứ theo quy định của luật và đồng thời trong quá trình tạm giam, người thân của bị can có thể thực hiện thủ tục bảo lãnh cho bị can tại ngoại, ra sinh hoạt trong cộng đồng.
Tuy nhiên việc bảo lãnh tại ngoại phải đảm bảo các điều kiện nhất định và theo một trình tự, thủ tục được pháp luật ghi nhận. Hy vọng qua bài viết này, đội ngũ chuyên gia, luật sư của Luật Dương Gia sẽ giúp mọi người nắm rõ điều kiện, thủ tục cũng như các vấn đề pháp lý liên quan đến việc bảo lãnh tại ngoại cho bị can, bị cáo nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo.
Luật sư
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái niệm bảo lãnh, đặc điểm bảo lãnh
- 2 2. Điều kiện bảo lãnh tại ngoại
- 3 3. Hồ sơ bảo lãnh tại ngoại
- 4 4. Thẩm quyền và thủ tục bảo lãnh
- 5 5. Thời gian tại ngoại khi được bảo lãnh
- 6 6. Trộm cắp lần đầu có bảo lãnh được không?
- 7 7. Thủ tục xin bảo lãnh để được tại ngoại
- 8 8. Có được đề nghị bảo lãnh xin tại ngoại trong giai đoạn điều tra?
- 9 9. Điều kiện bảo lãnh? Để bảo lãnh phải đáp ứng điều kiện gì?
1. Khái niệm bảo lãnh, đặc điểm bảo lãnh
Trong đời sống hàng ngày, ngôn ngữ thông thường mọi người hay nhận định bảo lãnh và bảo lĩnh là hai từ đồng nghĩa, có ý nghĩa và khái niệm như nhau. Tuy nhiên về mặt ngôn ngữ pháp lý đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, được điều chỉnh tại hai ngành luật hoàn toàn khác nhau. Cụ thể bảo lãnh được quy định trong pháp luật dân sự là một biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng dân sự, giao dịch dân sự hay gọi chung là nghĩa vụ dân sự giữa các bên.
Tuy nhiên bảo lĩnh được ghi nhận là một trong những biện pháp ngăn chặn thay thế cho việc tạm giam bao gồm bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc tạm hoãn việc xuất cảnh quy định tại khoản 1 Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Căn cứ vào các quy định của luật, khái niệm được rút ra như sau:
Bảo lĩnh là một trong các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự, do cơ quan có thẩm quyền hoặc người có thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với các bị can, bị cáo khi có đủ các căn cứ để thay thế biện pháp tạm giam, nhằm bảo đảm bị can, bị cáo không tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc không phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng.
Qua khái niệm nêu trên, ta có thể xác định được đặc điểm cơ bản của biện pháp bảo lĩnh bao gồm:
– Bảo lĩnh là một trong những biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng trong pháp luật tố tụng hình sự;
– Được áp dụng thay thế biện pháp tạm giam;
– Có tính chất ít nghiêm trọng và răn đe hơn biện pháp tạm giam;
– Đối tượng áp dụng của biện pháp bảo lĩnh là bị can hoặc bị cáo;
– Việc thực hiện bảo lĩnh chỉ được áp dụng khi có sự đồng ý của các cơ quan tiến hành tố tụng sau khi có các căn cứ và đảm bảo các điều kiện nhất định và được thực hiện theo thủ tục luật định;
– Mục đích của biện pháp bảo đảm bao gồm: nhằm đảm bảo không để bị can hoặc bị cáo tiếp tục phạm tội; cản trở cơ quan chức năng tiến hành điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo sự có mặt trong quá trình tiến hành tố tụng.
2. Điều kiện bảo lãnh tại ngoại
Bị can muốn được bảo lĩnh phải được Cơ quan điều tra, Tòa án hoặc Viện kiểm sát ra quyết định đồng ý cho họ được bảo lĩnh dựa trên yêu cầu của nhân thân. Căn cứ để ra quyết định cho phép bảo lãnh dựa vào các tiêu chí như sau:
– Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:
Cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền ra quyết định bảo lĩnh căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi để phân ra các loại tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Luật không quy định cụ thể phạm tội ở mức độ nào thì sẽ được bảo lĩnh tại ngoại, tuy nhiên trên thực tế việc biện pháp bảo lĩnh thường chỉ được áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng và có một số trường hợp mức độ nguy hiểm cho xã hội là ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng nhưng trong một số tội như liên quan đến xâm phạm an ninh quốc gia; an toàn, trật tự xã hội,… cơ quan tiến hành tố tụng cũng không đồng ý bảo lĩnh.
– Nhân thân của người bảo lĩnh:
Các bị can, bị cáo muốn được bảo lĩnh tại ngoại thì thân nhân, người đứng ra bảo lĩnh phải đảm bảo các điều kiện được quy định như sau:
+ Về độ tuổi: Là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi hình sự đầy đủ.
+ Có nhân thân tốt: Nhân thân được thể hiện trong lý lịch cá nhân và các giấy tờ, tài liệu khác liên quan. Nhân thân tốt ở đây có thể là có công việc ổn định lâu dài; trước đây chưa từng bị xử phạt vi phạm hành chính; không phải là đối tượng thường gây rối mất trật tự tại địa phương; có thành tích được ghi nhận trong đời sống và công việc;…
+ Ý thức pháp luật: Người bảo lĩnh phải là người có ý thức chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh;
+ Thu nhập: Người bảo lĩnh phải có nguồn thu nhập ổn định;
+ Các điều kiện khác: Phải đảm bảo các điều kiện về việc quản lý bị can, bị cáo trong qúa trình bảo lĩnh.
Đối với cá nhân đứng ra bảo lĩnh cho người khác mà là người thân tích của bị can, bị cáo thì phải có hai người bảo lĩnh trở lên.
Tổ chức, cơ quan cũng có thể đứng ra bảo lĩnh cho người thuộc cơ quan, tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý của mình.
3. Hồ sơ bảo lãnh tại ngoại
Người thực hiện thủ tục bảo lĩnh chuẩn bị 01 bộ hồ sơ bao gồm các giấy tờ, tài liệu sau:
– Giấy cam đoan của người bảo lĩnh:
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh cho người thuộc đơn vị của mình thì giấy cam đoan phải có nội dung xác nhận của người đứng đầu cơ quan, đơn vị đó.
– Giấy cam đoan của bị can, bị cáo:
Giấy cam đoan của bị can, bị cáo phải đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ như sau:
+ Cam đoan không tiếp tục phạm tội hoặc không bỏ trốn khỏi nơi cư trú;
+ Cam đoan có mặt đúng thời gian, địa điểm theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên có thể vắng mặt nếu có lý do chính đáng hoặc do nguyên nhâ, trở ngại khách quan;
+ Cam đoan không thực hiện các hành vi sau đây: Không được trả thù, đe dọa hay khống chế những người làm chứng, người bị hại, người tố giác tội phạm và những người thân thích của những người đó. Không được xúi giục, mua chuộc hay khống chế người khác khai báo thông tin gian dối, cung cấp những tài liệu hoặc bằng chứng sai sự thật khách quan và cam kết không tiêu hủy chứng cứ, làm giả chứng cứ, tài liệu vụ án, tẩu tán các tài sản liên quan đến vụ án này.
4. Thẩm quyền và thủ tục bảo lãnh
– Thẩm quyền bảo lĩnh:
Người có thẩm quyền ra quyết định bảo lĩnh được quy định tại khoản 1 Điều 113 và khoản 4 Điều 121
+ Trong giai đoạn điều tra: Thủ trưởng, các Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp huyện, cấp tỉnh.
+ Trong giai đoạn truy tố: Viện trưởng, các Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, các Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
+ Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử: Chánh án, các Phó Chánh án Tòa án nhân dân các cấp và Chánh án, các Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp;
+ Trong giai đoạn xét xử: Hội đồng xét xử vụ án của bị can, bị cáo hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
– Thủ tục bảo lĩnh:
Thủ tục bảo lĩnh được pháp luật tố tụng hình sự quy định như sau:
+ Đầu tiên người bảo lĩnh và bị can, bị cáo viết giấy cam đoan và tiến hành xác nhận trong các trường hợp cần xác nhận;
+ Nộp giấy cam đoan cho cơ quan có thẩm quyền;
+ Cơ quan có thẩm quyền xem xét, ra quyết định bảo lĩnh;
+ Gửi quyết định bảo lĩnh tới nơi đang tạm giam bị can, bị cáo để cho bị can, bị cáo tại ngoại.
5. Thời gian tại ngoại khi được bảo lãnh
Thời hạn bảo lĩnh cho bị can, bị cáo tại ngoại luật định không được quá khoảng thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử. Riêng đối với thời gian tại ngoại của người bị kết án phạt tù sẽ không quá thời hạn kể từ thời điểm tuyên án cho đến thời điểm bắt đầu chấp hành án phạt tù.
Ví dụ:
Ngày 01/12/2018 Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội tuyên bị cáo Nguyễn Văn A mức phạt là 06 tháng tù giam, thời gian bắt đầu chấp hành bản án là từ ngày 01/02/2019. Như vậy thời gian tại ngoại của anh Nguyễn Văn A chỉ có thể từ ngày 01/12/2018 cho đến trước ngày 01/02/2019.
Lưu ý:
– Quyết định bảo lĩnh của người có thẩm quyền trong giai đoạn điều tra phải được sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;
– Nếu người bảo lĩnh, các cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh mà để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ đã nêu trong bản cam đoan thì sẽ bị xử phạt mức tiền theo từng tính chất, từng mức độ vi phạm.
6. Trộm cắp lần đầu có bảo lãnh được không?
Tóm tắt câu hỏi:
Thưa luật sư, cho tôi hỏi một vấn đề như sau:
Em trai tôi có hành vi trộm cắp xe máy (giá trị xe máy là 18 triệu đồng) hiện nay đang bị cơ quan công an tạm giữ để điều tra, em trai tôi thực hiện hành vi trộm cắp một mình và lần đầu, thành khẩn khai báo, vậy cho tôi hỏi gia đình tôi muốn bảo lãnh được không ạ? Nếu không bảo lãnh được thì em tôi phải chịu mức tù là bao nhiêu năm?
Luật sư tư vấn:
Theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự quy định:
“ Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Như vậy, dựa vào tình tiết bạn đưa ra em bạn sẽ bị áp dụng vào Khoản 1 Điều 138 về tội trộm cắp tài sản, mức cao nhất của khung hình phạt đến ba năm tù.
Còn về vấn đề xin bảo lãnh, bạn có thể làm đơn xin bảo lãnh theo quy định, còn quyết định như thế nào là do cơ quan tố tụng căn cứ vào sự cần thiết của các biện pháp ngăn chặn họ chọn. Tuy nhiên, trong trường hợp như bạn nói thì có khả năng em bạn sẽ được hưởng án treo.
7. Thủ tục xin bảo lãnh để được tại ngoại
Tóm tắt cấu hỏi:
Em có một em trai bị mất tích năm 2011. Gia đình đã đi tìm khắp nơi nhưng không thấy. Đến ngày 22 tháng 11 năm 2013, gia đình mới nhận được tin em trai em đang bị giam tại trung tâm cai nghiện Ba Vì. Đến tháng 12 năm 2013, em trai em được về nhưng khi gia đình em đến thì đã hết thời gian bảo lãnh. Xin luật sư cho hỏi trong hai năm em trai em bị giam tại trung tâm, phía bên trung tâm không thông báo gì cho gia đình là đúng hay sai? Nếu gia đình muốn đưa em trai em về thì em phải làm như thế nào?
Luật sư tư vấn:
Vì câu hỏi của bạn không đầy đủ, không nêu rõ em trai bạn bao nhiêu tuổi, mất tích vì lý do gì, do bỏ nhà đi, thất lạc hay do bị tạm giam mà gia đình không hề hay biết. Em trai bạn có nghiện ma túy hay không và không nêu rõ ngày bị tạm giam giữ, nếu theo thông tin bạn đưa ra thì em trai bạn đã bị giam hai năm, tức là bị giam giữ từ năm 2011. Mình không thể tư vấn một cách chính xác nhất đối với trường hợp của em trai bạn, tuy nhiên mình có một số điều tư vấn như sau:
Theo Điều 8 Nghị định 221/2013/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:
“Trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:
1. Khi phát hiện người sử dụng ma túy trái phép, Công an cấp xã nơi người đó có hành vi vi phạm lập biên bản về hành vi sử dụng ma túy trái phép của người đó và tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trường hợp cá nhân, tổ chức phát hiện người sử dụng ma túy trái phép thì báo cho cơ quan Công an cấp xã nơi người có hành vi vi phạm để lập biên bản và xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ:
a) Trường hợp người vi phạm cư trú tại xã, phường, thị trấn nơi xảy ra vi phạm và đã được giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định này;
b) Trường hợp người vi phạm có nơi cư trú không thuộc xã, phường, thị trấn nơi xảy ra vi phạm thì bàn giao người và biên bản vi phạm cho cơ quan Công an cấp xã nơi người vi phạm cư trú để tiến hành lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định này. Việc bàn giao phải được lập thành biên bản, mỗi bên giữ một bản;
c) Trường hợp chưa xác định được nơi cư trú ổn định của người vi phạm, thì tiến hành xác định nơi cư trú ổn định của người đó. Trong thời gian 15 ngày làm việc, nếu xác định được nơi cư trú ổn định thì thực hiện theo Điểm a hoặc Điểm b Khoản 1 Điều này; nếu không xác định được nơi cư trú ổn định thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Nghị định này”.
Như vậy trong trường hợp trên, khi em trai bạn bị bắt giam , nếu phía trung tâm xác định được nơi cư trú của em trai bạn mà không hề có thong báo về địa phương nơi gia đình bạn cư trú thì phía trung tâm đã sai. Còn nếu họ có điều tra nhưng không xác định được nơi cư trú của em trai bạn vì lý do như em trai bạn không chịu khai, em trai bạn không nhớ nơi cư trú của gia đình…thì phía trung tâm họ không làm sai.
Đối tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Luật xử lý vi phạm hành chính gồm:
1. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện.
2. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy nhưng không có nơi cư trú ổn định.
Như vậy trong trường hợp này nếu em bạn chưa đủ 18 tuổi thì việc giam giữ em trai bạn của trung tâm cai nghiện là sai pháp luật.
Theo Điều 92 Bộ luật Tố tụng hình sự, bảo lãnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, cơ quan điều tra, VKS, tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lãnh. Cá nhân (ít nhất thì phải có hai người) có thể nhận bảo lãnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Tổ chức có thể nhận bảo lãnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Khi nhận bảo lãnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của các cơ quan nói trên. Đồng thời, họ phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lãnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Cá nhân nhận bảo lãnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lãnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lãnh thì việc bảo lãnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.
Đối với trường hợp của em trai bạn, gia đình bạn có thể cử ra ít nhất hai người đáp ứng đầy đủ các yêu cầu, điều kiện nêu trên làm đơn xin bảo lãnh cho em bạn tại ngoại. Đơn xin bảo lãnh tại ngoại này phải có sự xác nhận của chính quyền địa phương nơi người bảo lãnh cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đơn phải gửi đến cơ quan cảnh sát điều tra có thẩm quyền để được xem xét, giải quyết theo quy định pháp luật.
8. Có được đề nghị bảo lãnh xin tại ngoại trong giai đoạn điều tra?
Chương VI của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003 quy định những biện pháp ngăn chặn gồm có: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm; trong đó có biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là các biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam.
Theo quy định tại Điều 92, Bộ Luật Tố tụng hính sự 2003 về Bảo lĩnh:
1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
2. Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
3. Những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.
4. Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.
5. Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Căn cứ quy định trên thì tùy vào giai đoạn điều tra, truy tố hoặc xét xử mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho bị can, bị cáo được bảo lĩnh.
Đối với trường hợp xin được bảo lĩnhtrong giai đoạn điều tra thì, việc có được bảo lĩnh hay không còn tùy thuộc vào quyết định của cơ quan có thẩm quyền, cụ thể trong giai đoạn này là Cơ quan điều tra. Thủ trưởng Cơ quan điều tra căn cứ vào tính chất và mức độ phạm tội để ra quyết định về việc có hay không được bảo lĩnh.
Phải có ít nhất hai người (đáp ứng các điều kiện trên) làm đơn xin bảo lĩnh cho người nhà của họ tại ngoại, đơn này phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, sau đó gửi đến Cơ quan điều tra để được xem xét giải quyết. Nếu là tổ chức nhận bảo lĩnh cho người của tổ chức mình thì phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.
Tuy nhiên, hiện nay, Pháp luật không có quy định cụ thể nào về chế tài áp dụng đối với người nhận bảo lĩnh trong trường hợp người bị kết án được bảo lĩnh trốn sau khi xét xử. Do không quy định cụ thể trách nhiệm của người bảo lĩnh, nên có nhiều trường hợp, người bị kết án lợi dụng biện pháp bảo lĩnh để trốn, gây khó khăn cho công tác xét xử hoặc thi hành án, làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tiến hành tố tụng.
9. Điều kiện bảo lãnh? Để bảo lãnh phải đáp ứng điều kiện gì?
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào Luật Dương Gia tôi có 1 thắc mắc mong được giải đáp. Hiện tại cha tôi đang bị bắt vì tội cố ý gây thương tích cho người khác (tổn thương 6%, hung khí dùng gậy sắt dài 20cm). Cha tôi gây án ở TP HCM và bị truy nã 2 năm. Nay cha tôi ra đầu thú và tôi muốn được bảo lãnh cha tại ngoại để làm thủ tục điều tra. Vậy cho tôi hỏi là:
1. Với trường hợp tôi chưa có hộ khẩu thường trú tại TP HCM thì có được bảo lãnh cho cha hay không?
2. Tôi có quyền được gặp người bị hại để nhờ họ viết đơn bãi nại được hay không? (tôi đã đên bù thiệt hại theo yêu cầu của bên bị hại)
3. Đơn bãi nại thì có bắt buộc người bị hại viết hay người thân của người bị hại viết cũng được?
4. Với tội danh trên liệu sau khi tôi thuyết phục được họ làm đơn bãi nại thì liệu cha tôi có được xóa án và đình nã hay không? Tôi xin chân thành cảm ơn.?
Luật sư tư vấn:
Theo thông tin bạn cung cấp thì cha của bạn đang bị điều tra về tội cố ý gây thương tích do dùng hung khí là gậy sắt được coi là vũ khí có tính chất nguy hiểm để gây thương tích 6% cho người khác, quy định về tội phạm này tại điểm a Khoản 1 Điều 104 “Bộ luật hình sự 2015” như sau:
Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.
Thứ nhất, về vấn đề bảo lĩnh tại ngoại trong giao đoạn điều tra.
Theo quy định về vấn đề này tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 như sau:
Điều 92. Bảo lĩnh
1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
2. Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
3. Những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.
4. Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.
5. Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Theo như quy định trên thì việc bạn muốn xin bảo lĩnh tại ngoại trong quá trình điều tra cho cha của bạn sẽ phụ thuộc trực tiếp vào những yếu tố sau:
– Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi cha bạn phạm tội, cơ quan có thẩm quyền trực tiếp trong trường hợp này là cơ quan điều tra sẽ xem xét xem cha có bạn có thể được bảo lĩnh hay không.
– Trong trường hợp muốn bảo lĩnh yêu cầu thì ít nhất phải có hai người. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án.
– Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Do vậy dù bạn không có hộ khẩu thường trú tại thành phố Hồ Chí Minh bạn vẫn có thể tiến hành bảo lĩnh với việc xác nhận thủ tục liên quan là xác nhận tại địa phương nơi bạn cư trú hoặc cơ quan tổ chức nơi bạn làm viêc.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài:1900.6568
Thứ hai, về vấn đề bãi nại.
Tội phạm mà cha bạn phạm phải thuộc vào quy định tại Khoản 1 Điều 104 “Bộ luật hình sự 2015”, mà theo Khoản 1 Điều 105 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003: quy định thì trường hợp này việc khởi tố tội phạm dựa theo yêu cầu của người bị hại.
Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Như vậy, trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án sẽ được đình chỉ, bạn có thể gặp người bị hại, có thể trình bài lý do và thuyết phục họ rút đơn yêu cầu khởi tố với điều kiện người đó không bị ép buộc, cưỡng bức và nộp đơn rút yêu cầu khởi tố hoàn toàn tự nguyện. Vấn đề yêu cầu rút đơn do người bị hại trực tiếp yêu cầu hoặc do người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất yêu cầu.
Khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại đã rút đơn yêu cầu khởi tố thì vụ án sẽ bị đình chỉ và cha bạn sẽ không bị điều tra, truy tố về tội phạm này nữa.
Thứ ba, về vấn đề đình nã sau khi người phạm tội ra tự thú.
Quy định về vấn đề trường hợp người bị truy nã ra tự thú tại Thông tư liên tịch 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật thi hành án hình sự về truy nã do Bộ Công an – Bộ Tư pháp – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao ban hành :
Điều 16. Giải quyết trường hợp người bị truy nã ra đầu thú
1. Khi có người bị truy nã đến đầu thú thì các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội báo ngay cho cơ quan Công an nơi gần nhất biết để cử người đến tiếp nhận và lập biên bản về việc người bị truy nã ra đầu thú. Trường hợp người bị truy nã ra đầu thú tại cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân các cấp thì các cơ quan này phải lập biên bản về việc người bị truy nã ra đầu thú và giải ngay người đó đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
2. Khi tiếp nhận người bị truy nã ra đầu thú, Cơ quan điều tra phải lập biên bản về việc người bị truy nã ra đầu thú (nếu cơ quan bàn giao chưa lập biên bản) và lấy lời khai về hành vi phạm tội, quá trình trốn, lý do đầu thú và những vấn đề khác có liên quan.
3. Người phạm tội bị truy nã ra đầu thú thì được xem xét là một tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
4. Người có quyết định thi hành án phạt tù bỏ trốn bị truy nã ra đầu thú nhưng đang bị bệnh hiểm nghèo (có kết luận của Hội đồng y khoa Bệnh viện cấp tỉnh trở lên), phụ nữ có thai (có xác nhận của Bệnh viện đa khoa cấp huyện trở lên), người đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người lao động duy nhất trong gia đình (có xác nhận của chính quyền địa phương) nếu phải chấp hành án phạt tù thì gia đình sẽ lâm vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, thì Tòa án có thể cho tạm hoãn chấp hành án phạt tù theo quy định tại Điều 61 Bộ luật hình sự.
Như vậy khi cha của bạn ra đầu thú, cơ quan có thẩm quyền sẽ phải có trách nhiệm thông báo đến những nơi đã gửi quyết định truy nã tới trước đó quyết định đình nã thoe Khoản 2 Điều Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003:
Điều 83. Những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt
1. Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
2. Đối với người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để đến nhận người bị bắt.
Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết.
Sau khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất.
Ngoài ra trong trường hợp đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại được rút, vụ án được đình chỉ thì cơ quan có thẩm quyền sẽ phải có trách nhiệm ra quyết định đình nã của người phạm tội đang bị truy nã theo quy định của pháp luật.