Điều kiện lựa chọn dự án thực hiện theo hình thức đối tác công tư. Đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
Điều kiện lựa chọn dự án thực hiện theo hình thức đối tác công tư. Đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
1. Cơ sở pháp lý:
2. Luật sư tư vấn:
Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (gọi tắt là PPP) là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện, quản lý, vận hành dự án kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công. Trong điều kiện nguồn vốn của Nhà nước hạn hẹp thì hình thức đối tác công tư được xem là giải pháp hữu hiệu.
Theo Điều 15 Nghị định 15/2015/NĐ-CP, để dự án được thực hiện theo hình thức đối tác công tư cần phải đáp ứng các điều kiện:
"- Phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, vùng và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương;
– Phù hợp với lĩnh vực đầu tư dự án xây dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh, quản lý công trình kết cấu hạ tầng, cung cấp trang thiết bị hoặc dịch vụ công quy định tại Điều 4 Nghị định 15/2015/NĐ-CP;
– Có khả năng thu hút và tiếp nhận nguồn vốn thương mại, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nhà đầu tư;
– Có khả năng cung cấp sản phẩm, dịch vụ liên tục, ổn định, đạt chất lượng đáp ứng nhu cầu của người sử dụng;
– Có tổng vốn đầu tư từ 20 tỷ đồng trở lên, trừ dự án đầu tư theo hợp đồng Kinh doanh – Quản lý (O&M) và dự án công trình kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và dịch vụ phát triển liên kết sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp."
>>> Luật sư tư vấn pháp luật hành chính qua tổng đài: 1900.6568
Dự án được chọn thực hiện theo hình thức đối tác công tư phải đáp ứng tất cả các điều kiện nêu trên. Nếu có nhiều dự án cùng đáp ứng các điều kiện thì dự án nào có khả năng thu hồi vốn từ hoạt động kinh doanh sẽ được ưu tiên lựa chọn. Đối với những dự án chưa có trong quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, vùng, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của địa phương phải được Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét bổ sung theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Nghị định 15/2015/NĐ-CP cũng quy định cụ thể vốn chủ sở hữu và vốn huy động của nhà đầu tư. Theo đó, nhà đầu tư chịu trách nhiệm góp vốn chủ sở hữu và huy động các nguồn vốn khác để thực hiện dự án theo thỏa thuận tại hợp đồng dự án.
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư không được thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư. Đối với dự án có tổng vốn đầu tư trên 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu được xác định theo nguyên tắc lũy tiến từng phần. Cụ thể, đối với phần vốn đến 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu không được thấp hơn 15% của phần vốn này; đối với phần vốn trên 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu không được thấp hơn 10% của phần vốn này.
Vốn đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án không tính vào tổng vốn đầu tư để xác định tỷ lệ vốn chủ sở hữu. Dự án khác do nhà đầu tư thực hiện để thu hồi vốn đã đầu tư vào công trình dự án BT phải đáp ứng yêu cầu về vốn chủ sở hữu (nếu có) theo quy định của pháp luật.