Di sản văn hóa là gì? Ý nghĩa, phân loại di sản văn hóa? Đây chắc hẳn là câu hỏi được bạn đọc quan tâm rất nhiều. Bài viết dưới đây của chúng mình sẽ giúp các bạn trả lời câu hỏi trên một cách chính xác nhất. Cùng theo dõi nhé.
Mục lục bài viết
1. Di sản văn hóa là gì?
Di sản văn hóa là sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Di sản văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các loại di sản truyền thống và hình thức văn hóa do tổ tiên chúng ta để lại (như di vật, hiện vật, hình thức văn học nghệ thuật, nghi lễ, lễ hội, phong tục, tập quán, kiến thức và kỹ năng liên quan đến sản xuất nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, v.v.) vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, đang được thực hành đồng thời có ý nghĩa và giá trị rất lớn đối với cộng đồng.
Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể.
2. Di sản văn hóa được chia thành những loại nào?
Theo Điều 1 Luật Di sản văn hóa 2001 và Điều 2 Nghị định 98/2010/NĐ-CP, di sản văn hóa được chia thành hai loại: di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể.
2.1. Di sản văn hóa vật thể:
Theo Khoản 2 Điều 4 Luật Di sản Văn hóa 2001:
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất chứa đựng tính lịch sử, văn hóa và khoa học, bao gồm di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Di sản văn hóa vật thể thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc ta, được lưu truyền từ đời này sang đời khác dưới nhiều hình thức truyền miệng, truyền nghề và các hình thức khác
Di sản văn hóa vật thể bao gồm các giá trị truyền thống sau:
– Di tích lịch sử
– Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
– Danh lam thắng cảnh
2.2. Di sản văn hóa phi vật thể:
Theo Điều 4 Luật Di sản văn hóa, di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng dân cư, vật thể và không gian văn hóa có liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học.
Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm:
– Ngôn ngữ, chữ viết
– Văn chương
– Diễn đàn diễn đàn nghệ thuật
– Phong tục và tín ngưỡng xã hội
– Lễ hội truyền thống
– Làng nghề
– Tri thức dân gian về y học cổ truyền, ẩm thực, trang phục truyền thống…
3. Ý nghĩa di sản văn hóa:
Di sản văn hóa quốc gia thuộc sở hữu và quản lý của Nhà nước, Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Theo Điều 6 Luật Di sản văn hóa số
Mọi di sản văn hóa nằm trong lòng đất liền thuộc địa, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều thuộc sở hữu của Nhà nước.
Di sản văn hóa có ý nghĩa to lớn đối với con người và xã hội ngày nay. Đối với người dân, di sản văn hóa có ý nghĩa hết sức to lớn đối với những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc ta. Những giá trị này được hình thành và lưu giữ từ quá khứ. Đối với xã hội, đó là tài sản vô giá, góp phần làm phong phú kho di sản văn hóa của nhân loại.
Không chỉ vậy, sản văn hóa còn để lại cho xã hội ngày nay nhiều giá trị phát triển du lịch văn hóa. Vì ngày nay người ta muốn tìm hiểu về những di sản văn hóa đặc sắc mang những câu chuyện về quá khứ của con người. Khi đất nước ta đa dạng về di sản văn hóa thì việc phát triển ngành du lịch văn hóa cũng mang lại cho người dân nhiều giá trị kinh tế về du lịch.
4. Giá trị của di sản văn hóa:
Di sản văn hóa có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội và cộng đồng, tạo động lực và nguồn lực thúc đẩy phát triển du lịch, mang lại lợi ích kinh tế và quảng bá hình ảnh của địa phương, đất nước trong quá trình hội nhập và phát triển.
Di sản văn hóa là nơi lưu giữ nét đẹp văn hóa truyền thống của thế hệ trước, tạo điều kiện cho các thế hệ tương lai bảo tồn, tái tạo và phát triển. Ngoài ra, đây cũng là nền tảng để chúng ta có thể tiếp cận các nền văn hóa trên thế giới mà không mất đi bản sắc dân tộc, hòa nhập nhưng không hòa tan.
Di sản văn hóa tham gia và có thể hiện thực hóa các hình thái văn hóa thế giới nói chung, góp phần làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc nói riêng. Di sản văn hóa luôn có nhiều dạng sinh thái, đa dạng dân tộc và biểu hiện của văn hóa. Sự đa dạng đó tạo nên sức sống và sự phong phú cho loại hình bản sắc văn hóa.
Di sản văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp không khói (du lịch). Hệ thống di sản văn hóa trên khắp cả nước là nguồn lực để xây dựng đất nước thông qua phát triển du lịch. Di sản văn hóa đã góp phần tạo nên nhiều sản phẩm du lịch đặc sắc cho nền du lịch Việt Nam; kết nối và đa dạng hóa các tuyến du lịch xuyên vùng và xuyên quốc gia.
Một trong những di sản văn hóa nổi tiếng thế giới của Việt Nam là Vịnh Hạ Long, đây là di sản được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới vì những giá trị đặc biệt về địa chất, địa mạo, đa dạng sinh học, giá trị văn hóa, lịch sử… Không những vậy, Vịnh Hạ Long còn vinh dự được bình chọn là một trong 7 kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới. Với những điều kiện thiên nhiên ưu đãi và những danh hiệu của mình, hiện nay, Vịnh Hạ Long đã trở thành trung tâm du lịch lớn thu hút lượng du khách đông đảo nhất cả nước.
Sức hấp dẫn và nổi tiếng của di sản văn hóa đã góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển du lịch, đồng thời mang đến nhiều lợi ích về thu nhập, việc làm và phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Tính đến năm 2020, cả nước ta có tổng 28 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể chính thức được UNESCO công nhận, trở thành tài sản chung của văn hóa nhân loại. Không những vậy, nơi đây còn có 301 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, 3.500 di tích quốc gia, 122 di tích quốc gia đặc biệt.
5. Pháp luật Việt Nam đối với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa:
Di sản văn hóa được coi là sự kết tinh các giá trị vật chất và tinh thần được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Do đó, việc bảo tồn các di sản văn hóa là điều rất quan trọng và cần thiết. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc ta, hệ thống pháp luật trong từng thời kỳ đều đề cập đến yêu cầu bảo vệ, duy trì và phát huy giá trị của di sản lịch sử, di sản văn hóa, nghệ thuật, danh lam thắng cảnh của đất nước.
Ngày 23 tháng 11 năm 1945, chỉ hơn 2 tháng sau khi đất nước giành được độc lập, mặc dù còn nhiều công việc cấp bách cần phải giải quyết, nhưng với tầm nhìn rõ ràng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL về việc bảo tồn các di tích cổ trên toàn quốc. Với ý nghĩa lịch sử to lớn này, ngày 24/2/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 36/QĐ-TTg chỉ định ngày 23/11 hằng năm là Ngày Di sản văn hóa Việt Nam, phấn đấu nhằm phát huy truyền thống, ý thức trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hóa, đồng thời động viên mọi người tích cực tham gia vào sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Năm 2001, Luật Di sản văn hóa được ban hành và sửa đổi, bổ sung năm 2009 – quy định cả về di sản văn hóa vật thể và phi vật thể.
– Một số giải pháp phát huy vai trò của di sản văn hóa:
Di sản văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội, sử dụng di sản văn hóa như một nguồn lực để giúp đất nước phát triển, tạo nên một xã hội hài hòa, nhân văn và phát triển riêng biệt. Do đó, cần có một số giải pháp để phát huy giá trị của di sản văn hóa:
+ Cần tôn trọng, bảo vệ và phát huy các giá trị, phát huy tính đa dạng của các di sản văn hóa.
+ Giảm thiểu tình trạng thương mại hóa, sân khấu hóa di sản. Trong các chương trình về trình diễn di sản, chúng ta cần phải xem xét kỹ lưỡng và hài hòa giữa nhu cầu thị trường và giá trị của di sản.
+ Xây dựng chiến lược truyền thông rộng rãi cho các di sản văn hóa và phát triển.