Các nước Tây Âu sau chiến tranh thế giới thứ 2 phải chịu nhiều tổn thất nặng nề về mọi mặt nhưng cũng đã có những thay đổi nhanh chóng để khắc phục được tình trạng đó. Vậy để nhanh chóng khôi phục nền kinh tế đất nước các nước Tây Âu phải làm gì? Mời các bạn cùng theo dõi bài viết sau!
Mục lục bài viết
1. Để nhanh chóng khôi phục nền kinh tế đất nước, các nước Tây Âu phải làm gì:
A.Tiến hành cải cách nền kinh tế.
B.Nhận viện trợ của Mĩ theo kế hoạch Mác-san.
C.Thu hẹp các quyền tự do dân chủ.
D.Trở lại xâm lược thuộc địa.
Chọn đáp án B
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, với mưu đồ bá chủ thế giới, lôi kéo các phe phái, Mĩ nhanh chóng tiến hành viện trợ cho các nước Tây Âu theo kế hoạch Mác – san vào năm 1948.
2. Tình hình chung các nước Tây Âu sau chiến tranh:
Các nước Tây Âu sau chiến tranh thế giới thứ 2 phải chịu nhiều tổn thất nặng nề về mọi mặt nhưng cũng đã có những thay đổi nhanh chóng để khắc phục được tình trạng đó. Sự thay đổi này của Tây Âu sau Chiến tranh thế giới thứ 2 được biểu hiện trên tất cả mọi lĩnh vực. Sau năm 1945, nhiều nước Tây Âu bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị quân đội phát xít chiếm đóng.
– Về kinh tế:
Năm 1948, 16 nước Tây Âu đã nhận viện trợ kinh tế của Mĩ theo kế hoạch Mác-san với tổng số tiền là 17 tỉ USD. Kinh tế Tây Âu được phục hồi nhanh chóng.
– Về chính trị:
+ Giai cấp tư sản cầm quyền các nước Tây Âu đều thực hiện chính sách thu hẹp các quyền tự do dân chủ, xoá bỏ các cải cách tiến bộ đã thực hiện trước đây.
+ Ngăn cản phong trào đấu tranh của quần chúng,…
+ Nước Đức bị phân chia làm hai: Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Dân chủ Đức (1949). Mĩ, Anh, Pháp dốc sức viện trợ cho Cộng hòa Liên bang Đức. Nhờ đó, nền kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức phục hồi và phát triển nhanh chóng vươn lên đứng thứ ba trong thế giới tư bản chủ nghĩa. Ngày 3-10-1990, nước Đức thống nhất, trở thành quốc gia có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất Tây Âu.
– Về quân sự: Các nước Tây Âu tham gia vào khối quân sự NATO do Mĩ lập ra để chống lại Liên Xô và các nước XHCN, làm cho tình hình châu Âu trở nên căng thẳng.
– Về đối ngoại: nhiều nước Tây Âu quay trở lại xâm lược các thuộc địa cũ (Hà Lan quay trở lại xâm lược In-đô-nê-xia, Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam…).
– Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước Tây Âu bị phát xít chiếm đóng và tàn phá rất nặng nề.
+ Năm 1944, sản xuất công nghiệp của nước Pháp giảm 38%, nông nghiệp giảm 60% so với trước chiến tranh.
+ Ở I-ta-li-a, sản xuất công nghiệp giảm khoảng 30%, sản xuất nông nghiệp chỉ bảo đảm 1/3 nhu cầu lương thực trong nước. Các nước đều bị mắc nợ, đến tháng 6 – 1945, nước Anh nợ tới 21 tỉ bảng Anh.
Từ năm 1950, sau khi phục hồi, nền kinh tế bắt đầu phát triển nhanh, các nước Tây Âu muốn thoát dần khỏi sự lệ thuộc của Mĩ. Họ cần liên kết để cạnh tranh với các nước ngoài khu vực, đặc biệt là Mĩ.
=> Để khôi phục kinh tế, năm 1948, 16 nước Tây Âu như Anh, Pháp, Tây Đức, I-ta-li-a… đã nhận viện trợ kinh tế của Mĩ theo “Kế hoạch phục hưng châu Âu” (còn gọi là Kế hoạch Mác-san).
Nội dung kế hoạch Macsan
– Thực hiện từ năm 1948 đến năm 1951 với tổng số tiền khoảng 17 tỉ USD. Mĩ viện trợ cho các nước Tây Âu phục hồi nền kinh tế.
– Các nước Tây Âu phải tuân theo những điều kiện do Mĩ đặt ra như:
+ Không được tiến hành quốc hữu hoá các xí nghiệp; hạ thuế quan đối với hàng hoá Mĩ nhập vào;
+ Phải gạt bỏ những người cộng sản ra khỏi chính phủ (như ở Pháp, I-ta-li-a…).
Chính sách đối nội
– Giai cấp tư sản cầm quyền ở các nước Tây Âu tìm cách thu hẹp các quyền tự do dân chủ;
– Xoá bỏ các cải cách tiến bộ đã thực hiện trước đây như: ngừng quốc hữu hoá các xí nghiệp tư bản và trả lại những xí nghiệp đã quốc hữu hoá cho các chủ cũ, giảm trợ cấp phúc lợi xã hội,… Ngăn cản các phong trào công nhân và dân chủ.
Chính sách đối ngoại
– Ngay sau khi chiến tranh kết thúc, nhiều nước Tây Âu đã tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược nhằm khôi phục ách thống trị đối với các thuộc địa trước đây.
+ Hà Lan xâm lược trở lại In-đô-nê-xi-a (11 – 1945);
+ Pháp trở lại Đông Dương (9 – 1945); Anh trở lại Mã Lai (9 – 1945).
=> Nhưng cuối cùng, các nước thực dân Tây Âu đều thất bại, phải công nhận quyền độc lập của các dân tộc ở những nước này.
– Trong thời kì Chiến tranh lạnh, các nước Tây Âu đã tham gia khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) do Mĩ lập ra (4 – 1949) nhằm chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Tình hình châu Âu trở nên căng thẳng, các nước đều chạy đua vũ trang và thiết lập nhiều căn cứ quân sự.
Tình hình nước Đức sau Chiến tranh
+ Sau khi nước Đức phát xít đầu hàng, bốn cường quốc Đồng minh là Liên Xô, Mĩ, Anh. Pháp đã phân chia lãnh thổ nước Đức thành bốn khu vực chiếm đóng và kiểm soát.
+ Trong sự đối đầu gay gắt giữa hai nước Liên Xô và Mĩ, các khu vực chiếm đóng của Mĩ, Anh, Pháp đã hợp nhất lại và thành lập Nhà nước Cộng hòa Liên bang Đức (9 – 1949).
+ Ở phía đông Đức, nhà nước Cộng hoà Dân chủ Đức được thành lập (10 -1949).
Sự phân chia phạm vi chiếm đóng của các nước lớn ở Đức
+ Mĩ, Anh, Pháp đã tích cực giúp đỡ Cộng hoà Liên bang Đức khôi phục nền kinh tế và đưa Cộng hoà Liên bang Đức vào khối quân sự Bắc Đại Tây Dương. Nền kinh tế Cộng hoà Liên bang Đức được phục hồi và phát triển nhanh chóng. Từ những năm 60 và 70 của thế kỉ XX, sản xuất công nghiệp của Cộng hoà Liên bang Đức đã vươn lên đứng thứ ba trong thế giới tư bản chủ nghĩa, sau Mĩ và Nhật Bản.
+ Ngày 3- 10- 1990, Cộng hoà Dân chủ Đức đã sáp nhập vào Cộng hoà Liên bang Đức thành một nước Đức thống nhất. Ngày nay, nước Đức là một quốc gia có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh nhất Tây Âu.
3. Quá trình liên kết khu vực các nước Tây Âu sau chiến tranh:
Nguyên nhân của sự liên kết
– Nhằm hình thành một thị trường chung Châu Âu, dần xoá bỏ hàng rào thuế quan.
– Có chính sách thống nhất trong nhiều lĩnh vực, mở rộng thị trường.
– Muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào Mĩ.
– Các nước Tây Âu có chung nền văn minh, có nền kinh tế không cách biệt nhau lắm và từ lâu đã liên hệ mật thiết với nhau. Sự hợp tác là cần thiết nhằm mở rộng thị trường, phát triển kinh tế, ổn định chính trị của các nước thành viên. Từ năm 1950, sau khi phục hồi, nền kinh tế bắt đầu phát triển nhanh, các nước Tây Âu muốn thoát dần khỏi sự lệ thuộc của Mĩ. Họ cần liên kết để cạnh tranh với các nước ngoài khu vực, đặc biệt là Mĩ.
Quá trình hình thành và phát triển của sự liên kết
– Tháng 4 – 1951, 6 nước Pháp, CHLB Đức, I-ta-li-a, Bỉ, Hà Lan thành lập “Cộng đồng than thép châu Âu”.
– Tháng 3 – 1957, “Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu” và “Cộng đồng kinh tế châu Âu” ra đời.
– Tháng 7 – 1967, ba cộng đồng trên sáp nhập thành Cộng đồng châu Âu (EC).
– Tháng 12 – 1991, các nước EC họp hội nghị cấp cao tại Maxtrich, thông qua hai quyết định quan trọng:
+ Xây dựng thị trường châu Âu với liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu, có một đồng tiền chung duy nhất. Ngày 1 – 1 – 1999, phát hành đồng EURO.
+ Xây dựng liên minh chính trị, mở rộng liên kết chính sách đối ngoại và an ninh, tiến tới một nhà nước chung.
– Năm 1993, Cộng đồng châu Âu được đổi tên thành Liên minh châu Âu (EU), trở thành một trong ba trung tâm kinh tế thế giới. Sau hơn 40 năm tồn tại, EU đã tạo ra một cộng đồng kinh tế và một thị chung với sức mạnh của dân số 320 triệu người có trình độ khoa học, kĩ thuật cao.
– Năm 2000, các nước EU dự kiến sẽ tiến hành một liên bang nhất thể hoá châu Âu về kinh tế và chính trị. Năm 2004, số thành viên của EU là 25 nước.
THAM KHẢO THÊM: