Làm sổ đỏ là vấn đề đặc biệt quan trọng trong hoạt động sử dụng đất của người dân. Đất sử dụng hợp pháp trước năm 1993 có được cấp sổ đỏ hay không là vướng mắc được rất nhiều người quan tâm. Dưới đây là bài phân tích làm rõ vấn đề này.
Mục lục bài viết
1. Vai trò, ý nghĩa của sổ đỏ (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất):
Sổ đỏ (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) là loại giấy tờ có giá trị pháp lý đặc biệt. Tại đó, Nhà nước công nhận việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho người dân. Có thể thấy, sổ đỏ có vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ đối với cá nhân người sử dụng đất, mà còn với cả công tác quản lý Nhà nước của cơ quan chức năng có thẩm quyền. Cụ thể như sau:
– Sổ đỏ là căn cứ xác minh quyền sử dụng đất hợp pháp của người dân. Đất đai là tài sản của toàn dân, thuộc quyền quản lý của Nhà nước. Theo quy định tại Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định như sau, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất. Bởi lẽ, khi người dân đảm bảo đầy đủ các yêu cầu, điều kiện nhất định, Nhà nước sẽ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân. Nếu không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người dân sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện các thủ tục, hoạt động liên quan đến đất đai.
– Trong thực tiễn sử dụng đất, có rất nhiều vấn đề phát sinh xảy ra. Một trong số đó là các vấn đề liên quan đến việc tranh chấp đất đai. Khi xảy ra tranh chấp, các bên ai cũng muốn được hưởng quyền lợi về mình. Lúc này, các bên cần đưa ra các bằng chứng chứng minh quyền lợi của bản thân. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ là căn cứ, bằng chứng xác thực nhất để các bên dựa vào để chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp của mình. Hay nói cách khác, sổ đỏ là căn cứ pháp lý xác thực nhất trong việc xác định tính đúng sai trong một cuộc tranh chấp quyền lợi về đất đai.
– Sổ đỏ (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) là căn cứ để người dân, cơ quan Nhà nước xác định mục đích sử dụng đất đối với loại đất đó. Thực tế, có rất nhiều trường hợp người dân sử dụng đất đai nhưng không biết mục đích sử dụng đất của mình là gì. Điều này khiến cho quá trình sử dụng đất xảy ra nhiều sai phạm, ảnh hưởng đến công tác quản lý đất đai của cơ quan Nhà nước. Lúc này, sổ đỏ chính là căn cứ để cơ quan chức năng dựa vào, xác định xem mục đích sử dụng đất của cá nhân đó là gì, từ đó đưa ra phương hướng xử lý phù hợp (nếu có sai phạm xảy ra). Đồng thời, người dân cũng dựa vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xác định mục đích sử dụng đất của mình, đưa ra phương hướng sử dụng đất sao cho phù hợp.
– Sổ đỏ (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) là cơ sở để cơ quan Nhà nước dựa vào, phục vụ cho hoạt động thu hồi đất. Khi có quyết định thu hồi đất, cơ quan Nhà nước sẽ dựa vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xác định mục đích sử dụng đất, diện tích đất của người dân, từ đó đưa ra quyết định bồi thường đất đai sao cho phù hợp nhất.
2. Đất sử dụng hợp pháp trước năm 1993 có được cấp sổ đỏ không?
Theo quy định tại Điều 100
– Trường hợp 1: Cá nhân, hộ gia đình có những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp.
– Trường hợp 2: Cá nhân, hộ gia đình có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
– Trường hợp 3: Cá nhân, hộ gia đình có giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;
– Trường hợp 4: Cá nhân, hộ gia đình có giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
– Trường hợp 5: Cá nhân, hộ gia đình có giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;
– Trường hợp 6: Cá nhân, hộ gia đình có giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
– Trường hợp 7: Cá nhân, hộ gia đình có các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ.
Từ những nội dung trên có thể thấy, thời điểm trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 là một mốc thời gian có giá trị pháp lý, nhằm xác định quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân trong vấn đề được xác định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nếu thuộc một trong các trường hợp cụ thể nêu trên, khi có yêu cầu xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người dân sẽ thực hiện các thủ tục cụ thể theo quy định của pháp luật, và được cấp giấy chứng nhận. Thực tế, yêu cầu về chứng thư tài liệu trong các mốc thời gian cụ thể mà Nhà nước đưa ra dựa trên khảo sát, xem xét thực tế áp dụng về công tác sử dụng và quản lý đất đai. Chỉ khi thuộc một trong các trường hợp nêu trên theo quy định của
Như vậy, để trả lời cho câu hỏi đất sử dụng hợp pháp trước năm 1993 có được cấp sổ đỏ hay không, thì ta sẽ dựa vào quy định của
3. Căn cứ để xác định đất đai được sử dụng ổn định khi muốn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
Xét về nguyên tắc chung, khi muốn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cá nhân, hộ gia đình phải đưa ra minh chứng chứng minh về việc mình sử dụng đất hợp pháp, ổn định, lâu dài. Xoay quanh câu chuyện về việc cấp sổ đỏ với đất sử dụng hợp pháp từ năm 1993, thì ta cần tìm hiểu thêm về vấn đề xác định đất sử dụng ổn định.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 21,
Khoản 2 Điều 21,
Từ những nội dung phân tích ở trên, có thể thấy, xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xác lập quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Thực tế, khi làm sổ đỏ (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), người dân phải tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật về cách thức tiến hành và thủ tục thực hiện. Việc tuân thủ các quy định mà Nhà nước đề ra giúp hoạt động xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của người dân diễn ra một cách chuẩn chỉnh, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, đây chính là cơ sở giúp công tác quản lý Nhà nước về đất đai đạt hiệu quả cao nhất.
Văn bản pháp luật sử dụng trong bài viết:
Luật đất đai 2013;
Nghị định 43/2014/NĐ-CP.