Nội dung đảm quyền của phụ nữ trong tố tụng hôn nhân và gia đình? Đảm bảo quyền ly hôn của phụ nữ trong tố tụng hôn nhân gia đình?
Mục lục bài viết
1. Nội dung đảm quyền của phụ nữ trong tố tụng hôn nhân và gia đình:
Ly hôn là một hiện tượng xã hội đã nảy sinh từ rất sớm trong xã hội có giai cấp: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án“. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác–Lênin, “Ly hôn là một mặt của quan hệ hôn nhân, nó là mặt trái, mặt bất bình thường, mặt không thể thiếu được của quan hệ hôn nhân và gia đình”. Thực hiện quyền tự do hôn nhân của cá nhân bao gồm quyền tự do kết hôn nhằm xác lập quan hệ vợ chồng trước pháp luật và quyền tự do ly hôn nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật, khi đời sống tình cảm yêu thương giữa vợ chồng đã hết, mâu thuẫn trong gia đình sâu sắc, mục đích của hôn nhân nhằm tạo lập cho xã hội những gia đình đã không thể đạt được.
Nền kinh tế thị trường với thành quả vượt bậc về đời sống kinh tế – xã hội, bên cạnh đó kéo theo những biến đổi trong văn hóa, đạo đức xã hội, làm giá trị đạo đức truyền thống trong mỗi gia đình cũng đang dần bị phá vỡ, tình trạng ly thân, ly hôn gần đây có xu hướng tăng dần theo từng năm, đặc biệt trong các gia đình trẻ. Theo nghiên cứu của TS Nguyễn Minh Hòa (ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn TP HCM) năm 2019, tỷ lệ ly hôn/kết hôn ở Việt Nam là 31,4%, tức là cứ ba cặp kết hôn lại có một cặp ly hôn.
Hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình của nước ta quy định vấn đề ly hôn chính đáng của vợ chồng vừa quy định giải quyết ly hôn có lý, có tình. Luật HNGĐ 2014 liên quan đến việc giải quyết vấn đề ly hôn của người phụ nữ ngoài những quyền lợi bình đẳng giữa vợ chồng trong việc ly hôn (vợ chồng bình đẳng về quyền yêu cầu ly hôn, quyền cấp dưỡng sau ly hôn, quyền phân chia tài sản chung, quyền thăm nom con sau khi ly hôn, ...) đã dự liệu về căn bản các tình huống thực tế người phụ nữ cần được bảo vệ: người phụ nữ được nuôi con chung nếu con còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi, không áp dụng quy định về ly hôn, giải quyết ly hôn đối với trường hợp người vợ đang có thai mà người chồng xin ly hôn; giải quyết việc chia tài sản chung theo nguyên tắc “ưu tiên” nhằm bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ ...
Giai đoạn tiền tố tụng hôn nhân và gia đình tại toà án, cụ thể là việc nộp đơn ly hôn thì quyền của phụ nữ được đảm bảo bằng việc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng.
2. Bảo đảm quyền yêu cầu ly hôn:
Người phụ nữ được gắn liền với thiên chức làm mẹ hay quyền làm mẹ. Quyền làm mẹ của người phụ nữ cần phải được ghi nhận và bảo vệ không chỉ dưới góc độ xã hội mà còn dưới góc độ pháp luật. Dưới góc độ xã hội, quyền làm mẹ là quyền nhân thân gắn liền với phụ nữ, gắn liền với người vợ. Quyền làm mẹ là quyền được sinh con, được có con (trong trường hợp nhận con nuôi), được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người mẹ. Dưới góc độ pháp luật, quyền làm mẹ cũng cần được bảo vệ thông qua các quy định của pháp luật. Trong trường hợp ly hôn, quyền làm mẹ của người phụ nữ cũng phải được ghi nhận và bảo vệ. Mang thai và sinh con là quá trình người phụ nữ phải chịu bao vất vả, và đứa con chính là sự gắn bó máu thịt với người mẹ. Do vậy, pháp luật cần phải bảo vệ người mẹ khi ly hôn thông qua việc hạn chế quyền ly hôn của người chồng trong những trường hợp nhất định.
Thực tế, người phụ nữ khi mang thai cần phải đảm bảo tốt với sức khỏe cũng như tinh thần để sinh con ra được khỏe mạnh. Ly hôn thường để lại cho người phụ nữ gánh nặng về mặt tâm lý. Hậu quả xã hội của ly hôn tác động đến cuộc sống của người phụ nữ, làm cho họ không đảm bảo sức khỏe sinh sản” để mang thai và làm mẹ an toàn. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cụ thể: “Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi“.
Với quy định trên, quyền làm mẹ của người vợ đã được đảm bảo một cách vững chắc hơn. Theo đó, trong trường hợp người vợ đang mang thai hoặc sinh con thì người chồng không được quyền ly hôn. Trong thời kỳ mang thai, người phụ nữ rất cần sự chăm sóc của người thân bên cạnh mình, đặc biệt người chồng là người gần gũi nhất với người vợ. Do vậy, nếu khi người vợ đang mang thai mà người chồng yêu cầu ly hôn thì sẽ tác động rất lớn đến tâm lý và sức khỏe của người vợ. Tác động này được nhìn nhận dưới tác động vật chất và tác động về tinh thần.
Nếu người chồng ly hôn thì người vợ sẽ bị ảnh hưởng xấu đến tinh thần, tình cảm không chỉ đối với bản thân người vợ mà còn đối với cả đứa trẻ chưa sinh. Thêm vào đó, người vợ cũng sẽ không nhận được sự ủng hộ về vật chất từ người chồng trong thời điểm này là một thiệt thòi lớn. Điều này sẽ làm ảnh hưởng xấu tới cả người vợ khi mang thai và ảnh hưởng xấu đến thai nhi.
Điều này được áp dụng ngay cả trong trường hợp người vợ đang mang thai với người khác hoặc bố của đứa trẻ là ai thì người chồng vẫn bị hạn chế quyền ly hôn. Từ đó cho thấy trong trường hợp người chồng phát hiện vợ ngoại tình và đứa con vợ mình đang mang thai, mới sinh hay dưới 12 tháng tuổi không phải là con của mình thì người chồng vẫn bị hạn chế quyền ly hôn tức là không được quyền yêu cầu Tòa án cho ly hôn.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng ghi nhận việc người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp người vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi dù cho đó là con đẻ của cả hai vợ chồng hoặc là con nuôi của hai vợ chồng. Quy định này cũng nhằm đảm bảo cho người mẹ được ổn định trong việc nuôi con nhỏ, đảm bảo quyền làm mẹ khi được nuôi con nhỏ. Nhưng nếu đặt ra vấn đề người vợ đang nuôi con nuôi mà do người chồng hoặc người vợ nhận nuôi riêng thì người chồng có yêu cầu xin ly hôn hay không?
Điều này vẫn còn gây bối rối trong việc giải quyết của Tòa án. Có Tòa thì không hạn chế ly hôn của người chồng khi đang nhận con nuôi, vì người vợ không bị tổn hại sức khỏe, tâm lý không bị ảnh hưởng nhiều nên người chồng có quyền yêu cầu ly hôn. Ở đây chỉ xét đến trường hợp con của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Ví dụ, trường hợp người vợ có thai nhưng do người vợ nhận mang thai hộ người khác vì mục đích nhân đạo hoặc người vợ không có khả năng sinh con và đang thực hiện việc nhờ người khác mang thai hộ theo đúng quy định của pháp luật thì người chồng có quyền yêu cầu ly hôn hay không? Hoặc việc người chồng biết rõ là người vợ đang mang thai là con của người khác thì người chồng có quyền yêu cầu ly hôn hay không?
Theo quan điểm của tác giả thì vẫn không nên cho phép người chồng có quyền yêu cầu ly hôn trong những trường hợp này. Mặc dù con không phải của người chồng nhưng nếu trong trường hợp người vợ mang thai thì người chồng cũng nên quan tâm, chăm sóc người vợ vì nghĩa vụ của vợ chồng là yêu thương chăm sóc nhau. Trong trường hợp này, nếu người chồng ly hôn thì có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý của người vợ.
Tóm lại, pháp luật HN&GĐ hiện hành đã có những quy định cụ thể bảo vệ quyền làm mẹ của người vợ thông qua việc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng trong một số trường hợp nhất định. Với quy định như vậy thì quyền làm mẹ đã được pháp luật bảo vệ một cách thiết thực. Tuy nhiên, trong những trường hợp đã nêu cũng cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể để dễ dàng trong việc thực thi pháp luật.