Quy định về việc đảm bảo quyền của đương sự trong việc chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích trước Tòa.
1. Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011;
–
2. Luật sư tư vấn:
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong Tố tụng dân sự là làm cho đương sự có đủ những điều kiện cần thiết để chắc chắn thực hiện được các quyền Tố tụng dân sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước
* Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong việc chứng minh thông qua tự chứng minh:
Đương sự có quyền và nghĩa vụ thực hiện hoạt động chứng minh thông qua việc cung cấp chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp thì mới là một trong những điều kiện để toà án tiến hành thụ lý đơn khởi kiện – thời điểm bắt đầu của hoạt động tố tụng dân sự. Không thể có một đơn khởi kiện nào được thụ lý mà không có chứng cứ để chứng minh, các nguyên tắc khác theo đó mới có thể phát sinh và áp dụng.
Nhận thức được vai trò quan trọng mang tính chất chỉ đạo, Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã quy định cụ thể nguyên tắc về việc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
“Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho toà án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh như đương sự” (khoản 1 Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự 2004).
Nguyên tắc này được cụ thể hoá tại Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 như sau:
“1. Đương sự có yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh
3. Cá nhân, cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước hoặc yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.”
Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu khởi kiện thuộc về đương sự. Toà án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi đương sự đã áp dụng mọi biện pháp nhưng vẫn không tự thu thập được và có yêu cầu Toà án tiến hành thu thập. Quy định này một mặt gắn trách nhiệm cho đương sự, giảm áp lực công việc cho Toà án, mặt khác cũng là cơ chế bảo đảm tính khách quan, tránh tình trạngToà án lạm dụng trong việc thu thập chứng cứ có lợi để thiên vị cho một trong các bên.
Việc các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình một mặt là xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự đối với việc khởi kiện của mình mặt khác là phương thức để đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự trong hoạt động Tố tụng dân sự trước Tòa án. Nguyên tắc này thể hiện tính đặc thù vì nếu như trong tố tụng hình sự, khi có tội phạm xảy ra, thì việc thu thập chứng cứ là thẩm quyền tố tụng của cơ quan điều tra hoặc các cơ quan, đơn vị khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, còn trong tố tụng dân sự, khi cần khởi kiện để giải quyết tranh chấp và khẳng định việc khởi kiện, phản tố việc kiện có căn cứ và đúng pháp luật, thì các đương sự phải tự mình thu thập, cung cấp và chuyển giao chứng cứ, tài liệu này cho Toà án. Việc cung cấp chứng cứ, chứng minh cho các yêu cầu của mình vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của đương sự. Đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, phải đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Ngược lại, nếu đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình cũng phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh. Như vậy, người đưa ra yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh trước; họ phải xuất trình các chứng cứ, đưa ra lý lẽ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ, đồng thời họ phải chỉ ra quy định của pháp luật cho phép chấp nhận yêu cầu của họ (tính hợp pháp của yêu cầu). Khi bên đưa ra yêu cầu đã chứng minh được tính có căn cứ và tính hợp pháp cho yêu cầu của mình thì bên phản đối yêu cầu phải đưa ra chứng cứ, lý lẽ để chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ. Điều đó cho thấy, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì nghĩa vụ chứng minh không chỉ đặt ra với bên khởi kiện mà đặt ra với cả bên bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn. Quy định này thể hiện sự bình đẳng, ngang bằng về nghĩa vụ chứng minh, không có loại đương sự nào được miễn trừ nghĩa vụ chứng minh, dù đương sự đó khởi kiện bảo vệ lợi ích của mình hay lợi ích chung hoặc yêu cầuToà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác cũng không được miễn trừ nghĩa vụ này. Do đó, nếu bên đương sự có nghĩa vụ đưa chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ. Hậu quả đó là, nếu họ là nguyên đơn sẽ bị bác yêu cầu, nếu là bị đơn sẽ bị xử thua kiện, sẽ phải chấp nhận các yêu cầu đã được chứng minh của nguyên đơn.
Pháp luật tố tụng dân sự đặt ra quyền và nghĩa vụ chứng minh cho đương sự là vì, quan hệ dân sự là quan hệ riêng tư của các bên, do các bên tự quyết định, tự giải quyết là chủ yếu và chỉ khi các bên không tự giải quyết được thì họ cũng tự quyết định có yêu cầu nhà nước can thiệp, hỗ trợ hay không. Mặt khác, các bên đương sự là những người hiểu rõ vụ việc của mình nhất, biết rõ tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc của mình có những gì và đang ở đâu. Do đó, khi các bên đã đưa việc tranh chấp của họ ra Toà án thì Toà án chỉ là trọng tài, giúp các bên giải quyết tranh chấp một cách khách quan và đúng pháp luật, chứ không thể làm thay, chứng minh thay cho đương sự mà chỉ đảm bảo cho quyền bảo vệ của đương sự thông qua việc chứng mịn. Trong một số vụ án, có đương sự không hiểu đây là nghĩa vụ chứng minh của mình cho nên không những không cung cấp chứng cứ cho Toà án mà còn không hợp tác với Toà án khi Toà án thu thập chứng cứ, như không cho Toà án xem xét đối tượng tranh chấp, không cho định giá tài sản, xem xét thẩm định tại chỗ đối với nhà đất, triệu tập đến để lấy lời khai nhưng không đến,… . Vì vậy, có những trường hợp Toà án đã phải căn cứ vào các chứng cứ bên kia cung cấp và các tài liệu đã thu thập được để giải quyết vụ án.
Đương sự được đảm bảo quyền bảo vệ thông qua việc tự mình thực hiện hoạt động chứng minh cho mình . Hoạt động chứng minh nhằm đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự nói một cách tổng quát nhất là thuộc về phía đương sự đã đưa ra yêu cầu. Thuật ngữ “yêu cầu” ở đây đã được sử dụng theo nghĩa rộng bao gồm cả yêu cầu về sự công nhận là đúng, là có lý và cả yêu cầu công nhận là không đúng, không có lý hay nói cách khác yêu cầu ở đây chính là đề ra đối tượng chứng minh. Khi nguyên đơn đưa ra yêu cầu bằng cách khởi kiện thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp; còn bị đơn đưa ra yêu cầu bác bỏ ý kiến của nguyên đơn thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho việc bác bỏ đó là có căn cứ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi đưa ra yêu cầu cũng phải chứng minh,… nguyên tắc này thống nhất với nguyên tắc về quyền tự định đoạt của đương sự, quyền và lợi ích của họ phải do chính họ quyết định.
Ngoài ra, đương sự còn được đảm bảo quyền được biết, ghi chép, sao chụp chứng cứ, chứng minh tài liệu do người khác cung cấp. Quyền này được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi, bổ sung 2011. Khi có quyền được biết này đương sự sẽ có sự chủ động cao trong việc thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng như tìm kiếm những bằng chứng để phủ nhận quan điểm của đối phương.
Đương sự là trung tâm của hoạt động tố tụng, là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung đang tranh chấp. Quyền và lợi ích của họ sẽ do chính họ quyết định thông qua hoạt động của mình. Nhà nước không can thiệp mà chỉ công nhận các quyền lợi khi xét thấy có căn cứ và hợp pháp thông qua hoạt động chứng minh của đương sự.
Một trong những biện pháp để hoàn thiện vai trò chứng minh của đương sự là đảm bảo sự bình đẳng giữa các đương sự trong hoạt động chứng minh và sự triệt để tuân thủ pháp luật. Bình đẳng ở đây nghĩa là không có bất cứ sự phân biệt nào về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự. Không ai có bất cứ một đặc quyền, đặc lợi nào dù đó là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đồng thời, hậu quả pháp lý bất lợi sẽ áp dụng cho tất cả các đương sự không thực hiện hay thực hiện một cách không đầy đủ nghĩa vụ chứng minh của mình. Có làm được như vậy mới giúp đương sự hoàn thành tốt quyền và nghĩa vụ chứng minh. Bên cạnh đó, nhà nước pháp quyền đòi hỏi mọi hoạt động phải dựa trên quy định của pháp luật. Không chỉ đương sự phải triệt để tuân thủ pháp luật khi thực hiện hoạt động chứng minh mà đòi hỏi cả từ phía các cơ quan tổ chức có trách nhiệm phối hợp, giúp đỡ đương sự. Một mặt cần nâng cao ý thức trách nhiệm của những cơ quan, tổ chức này mặt khác phải quy định các biện pháp chế tài cụ thể để áp dụng khi họ vi phạm, quy kết trách nhiệm về từng cá nhân cụ thể. Như vậy, hoạt động tố tụng mới diễn ra thuận lợi và suôn sẻ.
Trong đời sống pháp luật hiện nay, mỗi cá nhân trong chúng ta mỗi ngày tham gia hàng chục giao dịch dân sự với các tính chất khác nhau. Tuy các bên có quyền tự quyết định, tự định đoạt theo ý chí của mình, nhưng đối với các giao dịch dân sự quan trọng, cần phải thực hiện đúng quy định của pháp luật dân sự, lưu giữ tài liệu, văn bản hợp đồng, cũng như các chứng lí khác, có xác nhận, chứng thực, có người làm chứng, để phòng khi có tranh chấp phải sử dụng nó để làm chứng cứ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
>>> Luật sư
* Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong việc chứng minh thông qua hoạt động chứng minh của Tòa án :
a) Bảo đảm quyền chứng minh của đương sự ở giai đoạn sơ thẩm:
* Bảo đảm quyền cung cấp chứng cứ, yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ và áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời.
– Bảo đảm quyền cung cấp chứng cứ, chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:
Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự có quy định về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của đương sự. Là người có quyền lợi, nghĩa vụ cần giải quyết trong vụ án, bản thân đương sự phải là người chứng minh cho những quyền đó là hợp pháp thì Tòa án mới có căn cứ để xem xét yêu cầu đó của đương sự là có cơ sở pháp lý không. Tuy nhiên, để đảm bảo cho mọi sự thật khách quan của vụ án được sáng tỏ, trong điều kiện trình độ học vấn, hiểu biết pháp luật của người dân chưa thực sự cao, pháp luật cho phép các đương sự có thể xuất trình chứng cư ở mọi giai đoạn tố tụng: Khi khởi kiện, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và ngay cả tại phiên tòa sơ thẩm với những điều kiện nhất định.
– Bảo đảm quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ và quyề yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ.
Để thời hạn giải quyết vụ án dân sự không kéo dài lâu, trong trường hợp chứng cứ đang được quản lý, lưu giữ bởi các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ, pháp luật quy định Tòa án có quyền yêu cầu cá chủ thể này giao nộp chứng cứ cho Tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đơn yêu cầu (Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự).
Mặt khác, trong trường hợp vì những lý do khách quan hoặc chủ quan mà đương sự không thể tự mình cung cấp chứng cứ thì Tòa án sẽ hỗ trợ đương sự bằng việc thu thập chứng cứ khi đương sự không tự mình thu thập và có đơn yêu cầu. Các biện pháp mà thẩm phán có thể áp dụng để thu thập chứng cứ là: Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; trưng cầu giám định; xem xét, thẩm định tại chỗ; ủy thác thu thập chứng cứ..(Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự).
b) Trong giai đoạn phúc thẩm:
– Bảo đảm quyền cung cấp bổ sung chứng cứ: Trong quá trình Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì các đương sự vẫn có quyền xuất trình thêm những chứng cứ mới, bổ sung thêm những chứng cứ đã có. Người kháng cáo có thể gửi chứng cứ bổ sung kèm theo đơn kháng cáo đến Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án phúc thẩm, có thể giao chứng cứ sau khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý hồ sơ hoặc thể xuất trình chứng cứ ngay tại phiên tòa phúc thẩm. Khoản 3 Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự có quy định: “Tại phiên tòa phúc thẩm, đương sự, viện kiểm sát có quyền xuất trình bổ sung chứng cứ”. Hội đồng xét xử sẽ xem xét tất cả những chứng cứ cũ và chứng cứ mới được bổ sung.
* Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong việc chứng minh trước Tòa thông qua các chỉ thể khác:
Để đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự trong hoạt động chứng minh thì không chỉ đương sự, toàn án là chủ thể của hoạt động chứng minh mà còn nhiều người khác như người đại diện cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích của người khác, lợi ích của cộng đồng và Viện kiểm sát.
Thứ nhất là người đại diện của đương sự, người đại diện của đương sự là người thay mặt cho đương sự trong việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của đương sự. Bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho đương sự trong Tố tụng dân sự và trong hoạt động chứng minh được thực hiện theo nguyên tắc quy định tại Điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự. Khi tham gia vào hoạt động chứng minh, người đại diện có toàn quyền trong việc đề ra yêu cầu, phản yêu cầu và chứng minh cho những ý kiến đó. Hoạt động chứng minh của người đại diện là thay mặt cho đương sự, hành vi chứng minh của họ cũng chính là hành vi của đương sự và hướng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Và khi tư cách đương sự chấm dứt thì tư cách đại diện cũng chấm dứt.
Thứ hai là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, là những người đương sự nhờ và tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Khoản 1 Điều 64 Bộ luật tố tụng dân sự). Những người này cũng có thể là luật sư hoặc bất cứ chủ thể nào có đủ điều kiện mà đương sự tin tưởng. Đây cũng là một chủ thể của hoạt động chứng minh , họ có thể tham gia vào vụ án ở bất cứ giai đoạn nào, được tham gia phiên toàn sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Và họ cũng có quyền trong hoạt động chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự đó là:
“2. Xác minh , thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho tòa án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được sao chụp những tài liệu cần thiết trong hồ sơ để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
…
5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”
Vị trí pháp lý của người bảo vệ quyền lợi của đương sự không có gì khác so với đương sự vì họ thuộc nhóm người tham gia tố tụng.Tuy nhiên, họ không có quyền thay mặt đương sự mà chỉ có thể giúp đỡ đương sự, trong hoạt động chứng minh cũng vậy.
Thứ ba là Viện kiểm sát, Viện kiểm sát tham gia quá trình chứng minh thông qua hai hoạt động là tham gia phiên toàn và kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Viện kiểm sát tham gia phiên toàn “đối với những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại” (Khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự 2004), khi đó Tòa án phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiển sán nghiên cứu trừ trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp với tòa án cấp phúc thẩm đã kháng nghị phúc thẩm và viện kiểm sát cũng cấp với Tòa án có thảm quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm đã kháng nghị theo thru tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm trong thời gian luật định để xem xét. Và Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm khi xét thấy có căn cứ, khi đó viện kiểm sát phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Như vậy, hành vi kháng nghị Viện kiểm sát cũng tham gia hoạt động chứng minh một cách hết sức tích cực.
Bảo đảm quyền bản vệ của đương sự chính là việc thực hiện các quyền dân sự của chủ thể, tạo ra sự tin tưởng của người dân với hệ thống cơ quan tư pháp. Hơn nữa, một khi đương sự thực hiện được các quyền của mình trước Tòa án sẽ góp phần giải quyết vụ án được nhanh chóng, thuận tiện. Việc đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự chính là nhằm bảo đảm cho đương sự trong quá trình tố tụng là một vấn đề hết sức cần thiết, nhằm bảo đảm cho các đương sự được bảo vệ đầy đủ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án,nhằm đảm bảo sự dân chủ trong quá trình tố tụng.