Công văn 2316/BXD-TTr năm 2014 hướng dẫn một số quy định Nghị định 121/2013/NĐ-CP và Thông tư 02/2014/TT-BXD do Bộ Xây dựng ban hành.
Kính gửi: Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh
Bộ Xây dựng nhận được Công văn số 3636/SXD-TT ngày 28/4/2014 của Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị hướng dẫn một số quy định của Thông tư số 02/2014/TT-BXD ngày 12/02/2014 của Bộ Xây dựng quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
1. Về việc áp dụng quy định tại Khoản 2, Điều 6 Thông tư số 02/2014/TT-BXD
Căn cứ quy định tại Khoản 2, Điều 6 Thông tư số 02/2014/TT-BXD:
“2. Việc xây dựng nhà ở riêng lẻ thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không coi là hành vi xây dựng sai phép:
a) Thay đổi thiết kế bên trong mà không ảnh hưởng đến việc phòng cháy chữa cháy; môi trường; công năng sử dụng; kết cấu chịu lực chính hoặc kiến trúc mặt ngoài công trình;
b) Giảm số tầng so với giấy phép xây dựng đối với những khu vực chưa có quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 hoặc thiết kế đô thị đã được phê duyệt.”
Việc lấp ô thông thoáng hoặc tăng diện tích cầu thang (thuộc thiết kế bên trong công trình xây dựng là nhà ở riêng lẻ) mà không gây ảnh hưởng đến các yếu tố quy định tại Điểm a, Khoản 2, Điều 6 thì không coi là hành vi xây dựng sai phép.
Việc xây dựng nhà ở riêng lẻ có diện tích xây dựng nhỏ hơn diện tích xây dựng ghi trong giấy phép xây dựng được cơ quan có thẩm quyền cấp (giảm chiều rộng, chiều dài các tầng) không thuộc một trong hai trường hợp được quy định tại Khoản 2, Điều 6.
2. Về việc áp dụng quy định tại Điều 8 Thông tư số 02/2014/TT-BXD
2.1. Căn cứ quy định tại Khoản 1, Điều 8 Thông tư số 02/2014/TT-BXD như sau:
“1. Khoản 9 Điều 13 Nghị định số 121/2013/NĐ-CP chỉ được áp dụng đối với trường hợp khi người có thẩm quyền phát hiện hành vi vi phạm hành chính thì hành vi này đã kết thúc, công trình xây dựng đã được hoàn thành, đưa vào sử dụng.”
Như vậy, chỉ áp dụng Khoản 9, Điều 13 Nghị định số 121/2013/NĐ-CP đối với hành vi phải thỏa mãn tất cả các điều kiện: hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc, công trình xây dựng đã được hoàn thành, đưa vào sử dụng.
Về thời điểm xác định hành vi vi phạm được phép áp dụng quy định này, Nghị định số 121/2013/NĐ-CP chưa quy định cụ thể. Hiện nay, Bộ Xây dựng đang soạn thảo, trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Khoản 9, Điều 13 Nghị định số 121/2013/NĐ-CP theo hướng quy định này chỉ áp dụng đối với hành vi vi phạm đã kết thúc, công trình xây dựng đã được hoàn thành, đưa vào sử dụng trước ngày Nghị định số 121/2013/NĐ-CP có hiệu lực thi hành.
2.2. Căn cứ quy định tại Khoản 2, Điều 8 Thông tư số 02/2014/TT-BXD:
“2. Giá trị phần xây dựng sai phép, không phép, sai thiết kế được duyệt, sai quy hoạch hoặc sai thiết kế đô thị được duyệt được xác định như sau:
a) Đối với công trình chỉ yêu cầu lập báo cáo kinh tế – kỹ thuật xây dựng công trình, lập dự án đầu tư xây dựng công trình hoặc công trình xây dựng khác trừ nhà ở riêng lẻ:
– Trường hợp xây dựng công trình nhằm mục đích kinh doanh được tính bằng số m2 sàn xây dựng vi phạm nhân với giá tiền 1m2 theo hợp đồng đã ký.
– Trường hợp xây dựng công trình không nhằm mục đích kinh doanh được tính bằng số m2 sàn xây dựng vi phạm nhân với giá tiền 1m2 theo dự toán được duyệt.
b) Đối với nhà ở riêng lẻ được tính bằng số m2 xây dựng vi phạm nhân với giá tiền 1m2 xây dựng tại thời điểm vi phạm cộng với số m2 đất xây dựng vi phạm nhân với giá tiền 1m2 đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành hằng năm, trong đó giá trị đất được xác định theo nguyên tắc sau:
– Tầng 1(hoặc tầng trệt) tính bằng 100% giá tiền 1m2 đất tại vị trí đó nhân với số m2 đất xây dựng vi phạm.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568