Công bố và sử dụng tài liệu, chứng cứ trong tố tụng dân sự? Chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của đương sự vắng mặt?
Trên cơ sở quy định của pháp luật tố tụng dân sự quá các giai đoạn, các thời ký khác nhau nhưng đều có quy định chung về việc công khai, minh bạch trong quá trình xé xử vụ án trong dân sự. Chính vì nguyên tắc này mà pháp luật cũng có quy định về việc công bố và sử dụng tài liệu, chứng cứ trong tố tụng dân sự trong giai đoạn tố tụng mà cụ thể được quy định trước giai đoạn xét xử của phiên tòa. Tài liệu và chứng cứ đối với việc ra phán quyết của Tòa án và kết quả của một vụ án là rất quan trọng. Do đó, Tòa án cần phải thực hiện việc công bố và sử dụng tài liệu, chứng cứ trong tố tụng dân sự có các bên đương sự và những người có liên quan trong vụ án là điều rất cần thiết. Vậy pháp luật Tố tụng dân sự đã quy định về việc công bố và sử dụng tài liệu, chứng cứ trong tố tụng dân sự như thế nào? Trong nội dung bài viết dưới đây, Luật Dương Gia sẽ gửi tới quý bạn đọc nội dung này, như sau:
Luật sư
Cơ sở pháp lý:
1. Công bố và sử dụng tài liệu, chứng cứ trong tố tụng dân sự
Trên cơ sở quy định tại Điều 109
“1. Mọi chứng cứ được công bố và sử dụng công khai như nhau, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Tòa án không công khai nội dung tài liệu, chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu chính đáng của đương sự nhưng phải
3. Người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải giữ bí mật tài liệu, chứng cứ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này theo quy định của pháp luật”.
Trong quá trình diễn ra việc hỏi tại phiên Tòa, vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra để xem xét như quy định tại các điều 254, 255, 256
Trong phiên họp kiểm tra việc giao nộp và công bố tài liệu chứng cứ cũng được quy định tại khoản 2 Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định như sau:
“2. Khi kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, hỏi đương sự về những vấn đề sau đây:
a) Yêu cầu và phạm vi khởi kiện, việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết;
b) Tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác;
c) Bổ sung tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án triệu tập đương sự khác, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa;
d) Những vấn đề khác mà đương sự thấy cần thiết”.
Như vậy, trước khi Thẩm phán hỏi các đương sự về các vấn đề tại điểm a, b, c, d khoản 2 Điều 210 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Thẩm phán phải công bố tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bởi vì quy định mới chưa có hướng dẫn cụ thể nên thực tiễn còn nhận thức khác nhau. Ngoài các hoạt động nêu trên, để giúp cho việc xem xét vụ án một cách toàn diện, đầy đủ, hội đồng xét xử khi thấy cần thiết có thể công bố các tài liệu của vụ án. Theo Điều 254 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, hội đồng xét xử công bố các tài liệu của vụ án trong các trường hợp sau đây:
+ Người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên tòa mà trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đã có lời khai;
+ Những lời khai của người tham gia tố tụng tại phiên tòa mâu thuẫn với những lời khai trước đó;
+ Trong các trường hợp khác mà Tòa án thấy cần thiết hoặc có yêu cầu của kiểm sát viên, người tham gia tố tụng.
Đối với những trường hợp phải giữ bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư,…. thì hội đồng xét xử không phải công bố các tài liệu này.
Sau khi đã thực hiện đầy đủ các hoạt động nghiệp vụ trong thủ tục hỏi ở phiên tòa, hội đồng xét xử nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác xem họ có yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không. Tuy nhiên, trong trường hợp có người yêu cầu và Tòa án xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì chủ tọa phiên tòa quyết định tiếp tục cho họ đặt câu hỏi về những vấn đề mà họ chưa rõ liên quan đến vụ án. Nếu không có ai nêu ra vấn đề gì nữa thì chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc việc hỏi và chuyển sang phần tranh luận tại phiên tòa.
2. Chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của đương sự vắng mặt
Trên cơ sở quy định tại khoản 3 Điều 260 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp vắng mặt một trong các đương sự và người tham gia tố tụng khác thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của họ để trên cơ sở đó các đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp”.
Với quy định được nêu ra ở trên thì tại trong tố tụng dân sự có quy định tại bước hỏi của phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa phải thực hiện nhiệm vụ của mình là công bố lời khai của đương sự, người tham gia tố tụng khác trong trường hợp họ vắng mặt tại phiên tòa mà trong quá trình giải quyết vụ án họ đã có lời khai trước đó và đã có sự đồng ý của đương sự về nội dung vụ việc này. Đây là thủ tục bắt buộc, nếu chủ tọa phiên tòa không thực hiện sẽ bị coi là vi phạm thủ tục tố tụng.
Ngoài việc Tòa án thực hiện công bố lời khai của nguyên đơn, bị đơn trong phiên Tòa xét xử mà những đương sự này vắng mặt, bên cạnh đó, cũng giống như việc công bố lời khai của các đương sự khi vắng mặt thì chủ tọa phiên tòa cũng phải thực hiện nhiệm vụ của mình là công bố lời khai của người tham gia tố tụng khác nếu họ vắng mặt tại phiên tòa như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định…
Từ những quy định về vấn đề chủ tọa phiên tòa thực hiện việc công bố lời khai của nguyên đơn, bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định… vắng mặt là để trên cơ sở đó các đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp. Bởi vì, Điều 254 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định những trường hợp Hội đồng xét xử công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án, trong đó, tại điểm a khoản 1 quy định:
“Người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai trong giai đoạn chuẩn bị xét xử”, ngoại trừ những trường hợp không công bố tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 254 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, có thể thấy rằng việc pháp luật tố tụng quy định về việc công bố lời khai của đương sự và người tham gia tố tụng khác vắng mặt tại phần thủ tục tranh luận chính là nhằm mục đích nhắc lại lời khai của các đương sự và những người tham gia tố tụng đã khai trước đó để việc tranh tụng được diễn ra một cách thuận lợi và chính xác nhất dựa theo những lời khai đã được công bố. Bên cạnh đó thì việc chủ tọa phiên tòa công bố lại lời khai của họ đã được công bố tại phần thủ tục hỏi tại phiên tòa.
Như vậy, theo như quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì chủ tọa phiên tòa phải thực hiện 2 lần đối với việc công bố lời khai của những người tham gia tố tụng như: nguyên đơn, bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định… nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Trong đó, chủ tọa phiên Tòa thực hiện việc công bố lời khai lần đầu trong thủ tục công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án và lần thứ hai chủ tọa phiên Tòa thực hiện việc công bố lời khai trong thủ tục tranh luận. Ngoài ra, tại điểm a khoản 1 Điều 254 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về bước tranh luận của phiên tòa, Hội đồng xét xử công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án trong trường hợp người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.