Việc xác định quyền thừa kế đối với con nuôi chưa đăng ký là một vấn đề pháp lý đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ các văn bản pháp luật để hiểu rõ các quy định và thực tiễn áp dụng của pháp luật hiện hành. Vậy vấn đề này được quy định như thế nào? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Việc đăng ký nuôi con nuôi được quy định như thế nào?
Trước đây, theo quy định tại Điều 23 của Nghị định 19/2011/NĐ-CP điều chỉnh về việc đăng ký nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày 01 tháng 01 năm 2011 như sau (hiện nay quy định này đã bị bãi bỏ bởi khoản 1 Điều 2 Nghị định 92/2023/NĐ-CP):
-
Các trường hợp nuôi con nuôi đã phát sinh trước ngày 01 tháng 01 năm 2011, mà đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Nuôi con nuôi, sẽ được phép đăng ký từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi. Quy định này nhằm tạo cơ hội cho các gia đình đã nuôi con nuôi mà chưa thực hiện đăng ký chính thức trước đây xác định và bảo vệ quyền lợi pháp lý của các bên liên quan.
-
Điều khoản này cũng áp dụng cho các trường hợp mà công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới nhận trẻ em của nước láng giềng làm con nuôi trước ngày 01 tháng 01 năm 2011 nhưng chưa có thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc áp dụng quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi và sự xác nhận hợp pháp đối với các trường hợp nuôi con nuôi của các gia đình này, đồng thời khắc phục các hạn chế về thủ tục hành chính trong việc xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến việc nuôi con nuôi.
Thêm vào đó, Điều 50 của Luật Nuôi con nuôi 2010, quy định về điều khoản chuyển tiếp cụ thể như sau:
-
Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được phép đăng ký trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, với điều kiện sau:
+ Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật vào thời điểm quan hệ nuôi con nuôi phát sinh;
+ Quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống vào thời điểm Luật này có hiệu lực;
+ Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con.
-
Sau khi được đăng ký, quan hệ nuôi con nuôi quy định tại khoản 1 có giá trị pháp lý kể từ thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi.
-
Chính phủ quy định chi tiết thủ tục đăng ký nuôi con nuôi như quy định tại Điều này, nhằm đảm bảo sự thuận lợi và phù hợp với điều kiện thực tế của nhân dân ở các vùng, miền. Điều này nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi và tạo ra sự minh bạch trong việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến việc nuôi con nuôi.
Như vậy, việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật Nuôi con nuôi năm 2010 có hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được phép đăng ký trong thời hạn 05 năm kể từ ngày 01/01/2011 và phải đáp ứng đủ điều kiện được quy định trong Luật Nuôi con nuôi.
2. Con nuôi chưa đăng ký với cơ quan nhà nước có được hưởng thừa kế không?
Theo Điều 3, Khoản 3 của Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định về con nuôi được giải nghĩa như sau: con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký. Điều này có nghĩa rằng, việc thiết lập quan hệ nuôi con nuôi phải thông qua thủ tục pháp lý nhất định do nhà nước quy định và công nhận.
Việc nuôi con nuôi phát sinh trước ngày 01/01/2011 phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn 5 năm kể từ ngày 01/01/2011. Sau khi được pháp luật công nhận, quan hệ nuôi con nuôi sẽ kèm theo các quyền lợi và nghĩa vụ được quy định rõ ràng theo luật, bao gồm cả quyền thừa kế di sản của nhau.
Tuy nhiên, nếu trong trường hợp mà người nhận nuôi chỉ nhận nuôi đứa trẻ như một thành viên trong gia đình mà không thực hiện thủ tục đăng ký nuôi con nuôi, thì quan hệ này sẽ không có giá trị pháp lý theo Luật Nuôi con nuôi. Điều này có nghĩa là người được nhận nuôi sẽ không được công nhận là con nuôi để được hưởng các quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Do đó, trong trường hợp mà người nhận nuôi mất mà không để lại di chúc thì người được nhận nuôi sẽ không có quyền hưởng thừa kế đối với tài sản mà người nhận nuôi để lại, vì quan hệ nuôi con nuôi không được công nhận và bảo vệ bởi pháp luật. Quy định này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý khi thiết lập quan hệ nuôi con nuôi để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên trong quan hệ này và giúp tránh những tranh chấp pháp lý có thể xảy ra.
3. Khi cha mẹ đẻ chết thì con nuôi có được hưởng thừa kế không?
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Theo đó, Điều 24 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định, kể từ ngày được nhận làm con nuôi thì:
-
Quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi: Người nhận con nuôi và con nuôi sẽ có đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo pháp luật như quan hệ cha mẹ và con.
-
Quan hệ với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi: Con nuôi cũng có các quyền và nghĩa vụ đối với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi như được pháp luật quy định.
-
Quyền thay đổi họ, tên của con nuôi: Cha mẹ nuôi có quyền quyết định thay đổi họ, tên của con nuôi, trừ khi con nuôi đã đủ 9 tuổi, khi đó phải có sự đồng ý của con.
-
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đẻ sau khi con được nhận nuôi: Sau khi con được nhận làm con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, hay định đoạt tài sản riêng của con nuôi, trừ khi có thỏa thuận khác.
Điều này nhằm bảo vệ quyền lợi và xác rõ ràng quan hệ pháp lý giữa người nhận con nuôi và con nuôi, đồng thời quy định rõ vai trò và trách nhiệm của cha mẹ nuôi và cha mẹ đẻ sau khi con đã được nhận làm con nuôi.
Theo đó, khi đã được nhận làm con nuôi của người khác thì đồng nghĩa với việc các quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật… đối với cha mẹ đẻ đã chấm dứt. Tuy nhiên, quyền nhận thừa kế từ cha mẹ đẻ vẫn được con nuôi giữ lại.
Theo Điều 653 của Bộ luật Dân sự 2015, pháp luật không hạn chế quyền thừa kế của người đã được nhận làm con nuôi đối với cha mẹ đẻ của mình. Điều này có nghĩa là người được nhận làm con nuôi của người khác không chỉ có quyền nhận thừa kế từ cha mẹ nuôi mà còn có quyền nhận thừa kế từ cha mẹ đẻ.
Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 quy định rõ ràng về những người được ưu tiên hưởng thừa kế tại hàng thừa kế thứ nhất, bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Ngoài ra, nếu trong di chúc của cha mẹ đẻ có quy định để lại di sản cho người con đã được nhận nuôi, thì người này hoàn toàn được hưởng phần di sản do cha mẹ đẻ để lại. Điều này là quyền của người lập di chúc và phải tuân thủ các quy định tại Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015.
Để đảm bảo tính hợp pháp của di chúc, Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 quy định rằng di chúc phải được lập theo đúng quy trình. Trường hợp di chúc không hợp pháp, di sản thừa kế sẽ được chia theo quy định tại Điều 650 Bộ luật Dân sự 2015.
Do đó, khi đã được nhận làm con nuôi của người khác, người này hoàn toàn có quyền được hưởng di sản thừa kế từ cha mẹ đẻ theo các quy định pháp luật nêu trên.
THAM KHẢO THÊM: