Con chưa ra đời có được thừa kế? Thai nhi có được hưởng thừa kế không? Quyền được hưởng di sản thừa kế của thai nhi, con chưa ra đời?
Thừa kế được hiểu chung là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống, tài sản để lại được gọi là di sản. Có hai hình thức để lại di sản theo quy định của luật là hình thức hưởng thừa kế theo di chúc và hình thức hưởng thừa kế theo pháp luật Theo quy định của pháp luật hiện hành người cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Trong một số trường hợp như chồng mất mà người vợ đang mang thai thì liệu thai nhi có được hưởng di sản thừa kế của cha hay không? Để hiểu rõ hơn vấn đề thai nhi có được hưởng thừa kế khi bố mất Luật Dương Gia của chúng tôi tư vấn cho bạn đọc những vấn đề như sau:
Mục lục bài viết
1. Quy định về người thừa kế theo quy định của pháp luật hiện hành
Quyền để lại thừa kế và quyền được thừa kế là những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo hộ, bất kỳ ai cũng được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng. Để xét xem thai nhi có được hưởng di sản thừa kế khi bố mất hay không chúng ta xét xem những chủ thể nào được hưởng thừa kế và những chủ thể nào không được hưởng thừa kế.
Điều 613
“Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”
Bên cạnh đó pháp luật còn quy định về những người sau không được hưởng di sản thừa kế .Điều 621 BLDS 2015 quy định về những người không được hưởng di sản thừa kế như sau:
“1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.”
Di sản thừa kế được hiểu là phần tài sản mà người chết để lại sau khi trừ đi các nghĩa vụ của người đó khi còn sống và chi phí mai táng cho người đó khi chết, di sản thừa kế là phần đưa ra để chia thừa kế cho những người được hưởng thừa kế.
Theo quy định chung của pháp luật, chủ thể được hưởng thừa kế có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Đối với cá nhân thì phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Đối với pháp nhân thì pháp nhân được hưởng thừa kế phải đang được tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên, khi xét xem những chủ thể trên có được hưởng di sản thừa kế hay không ta còn phải xem xét họ có thuộc những trường hợp bị cấm nhận thừa kế hay không.
2. Phân chia di sản thừa kế cho thai nhi
Căn cứ theo Điều 613 Bộ luật dân sự 2015 quy định về người thừa kế như sau:
“Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”
Ngoài ra căn cứ theo điều 88
“Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.”
Như vậy, căn cứ vào quy định trên thì con sinh ra sau khi người để lại di sản mất được hưởng thừa kế khi đáp ứng hai điều kiện sau
+ con của người chết phải hình thành trước khi người đó mất
+ con sinh ra và còn sống tại thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế.
Khi đáp ứng được những điều kiện trên thì con sinh ra sẽ được hưởng thừa kế trong các trường hợp sau đây
Trường hợp thứ nhất: Người chết để lại di chúc và di chúc đó hợp pháp, việc định đoạt và phân chia di sản để lại sẽ tuân theo ý chí được thể hiện trong di chúc.
Trong trường hợp di chúc có đề cập về việc hưởng thừa kế của thai nhi thì phải thực hiện theo ý chí của người chết để lại, nếu di chúc không đề cập đến thì sau khi sinh ra sẽ áp dụng theo quy định của pháp luật về người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc.
Tuy nhiên, theo Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc thì:
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”
Trong trường hợp di chúc của người chết không để lại phần di sản cho con chưa sinh ra khi cháu được sinh ra hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn 2/3 suất của một người thừa kế thì cháu bé vẫn có quyền hưởng di sản từ người chết để lại bằng 2/3 một suất của một người thừa kế theo pháp luật.
Trường hợp thứ hai, người chết không để lại di chúc, việc định đoạt, phân chia di sản thừa kế sẽ tuân theo quy định của pháp luật về việc thừa kế không có di chúc, cụ thể như sau:
Trường hợp người để lại di sản chết không để lại di chúc thì di sản sẽ được chia theo pháp luật cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Bên cạnh đó, Bộ luật dân sự 2015 cũng quy định về người thừa kế như sau:
“Điều 613. Người thừa kế
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”
Ngoài ra, tại Điều 660 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về người được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật. Theo đó, khi phân chia di sản thừa kế, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải để lại một phần di sản bằng phần của những người thừa kế khác.
– Nếu thai nhi đó còn sống sau khi sinh ra thì sẽ được hưởng phần di sản thừa kế này.
– Nếu người đó chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng phần di sản thừa kế này.
Như vậy, thai nhi thành thai trong bụng mẹ trước khi người để lại di sản chết và sinh ra sau khi người để lại di sản chết và còn sống tại thời điểm phân chia di sản thì cũng được hưởng thừa kế; kỷ phần di sản của cháu bé này cũng bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng. Nhưng khác biệt về độ tuổi so với các chủ thể khác, đối tượng này do chưa thành niên (chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ) nên phần di sản thừa kế cháu bé được hưởng sẽ do người giám hộ đương nhiên (hoặc được cử ra) quản lý cho đến khi cháu bé thành niên (năng lực hành vi dân sự đầy đủ).
Pháp luật quy định rõ ràng việc thừa kế di sản của người chết để lại, đặc biệt đối với những người mang huyết thông trong gia đình. Thai nhi của người đã mất đương nhiên được hưởng di sản thừa kế của người bố để lại, nó phù hợp với những truyền thống của con người việt nam. Nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho thai nhi sau này được sinh ra, được hưởng những quyền lợi của mình để phát triển một cách toàn diện.