Trường hợp điều tra mà không có tội. Quy định pháp luật khi cơ quan điều tra không tìm ra căn cứ chứng minh được tội phạm.
Trường hợp điều tra mà không có tội. Quy định pháp luật khi cơ quan điều tra không tìm ra căn cứ chứng minh được tội phạm.
Theo Điều 119 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003 về Thời hạn điều tra có quy định:
1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.
2. Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều tra, cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị viện kiểm sát (gọi tắt là VKS) gia hạn điều tra.
Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá hai tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
3. Thẩm quyền gia hạn điều tra của VKS được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì VKS nhân dân cấp huyện, VKS quân sự khu vực gia hạn điều tra. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì VKSND cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng thì VKSND cấp huyện, VKS quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì VKSND cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng thì VKSND cấp huyện, VKS quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất; VKSND cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ hai. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì VKSND cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì VKSND cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai; VKSND Tối cao, VKS quân sự Trung ương gia hạn điều tra lần thứ ba.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
4. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn điều tra thuộc thẩm quyền của VKSND Tối cao, VKS quân sự Trung ương.
5. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn gia hạn điều tra đã hết nhưng do tính chất rất phức tạp của vụ án mà chưa thể kết thúc việc điều tra thì viện trưởng VKSND Tối cao có thể gia hạn thêm một lần không quá bốn tháng.
Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì viện trưởng VKSND Tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn tháng.
6. Khi đã hết thời hạn gia hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra.
Như vậy, khi hết thời hạn điều tra mà cơ quan điều tra không tìm ra căn cứ chứng minh được tội phạm thì phải ra quyết định đình chỉ điều tra, không được tiếp tục điều tra nữa.
Bạn có thể tham khảo thêm một số bài viết có liên quan khác của Dương Gia:
– Có được đề nghị bảo lãnh xin tại ngoại trong giai đoạn điều tra?
– Trách nhiệm hình sự của điều tra viên khi ép cung dùng nhục hình
– Phạm vi thẩm quyền của cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế
Mọi thắc mắc pháp lý cần tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ, quý khách hàng vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6568 hoặc gửi thư về địa chỉ email: [email protected].
——————————————————–
THAM KHẢO CÁC DỊCH VỤ CÓ LIÊN QUAN CỦA LUẬT DƯƠNG GIA:
– Tư vấn luật hình sự miễn phí