Có rất nhiều doanh nghiệp hiện nay đã phải tiến hành thủ tục thay đổi vốn điều lệ do các cổ đông sáng lập không thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký. Vậy pháp luậtquy định như thế nào về việc không thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký của cổ đông sáng lập?
Mục lục bài viết
1. Cổ đông sáng lập không thanh toán đủ cổ phần đã đăng ký:
1.1. Điều kiện để trở thành một cổ đông sáng lập:
Có thể thấy theo quy định của pháp luật hiện nay, thì để trở thành một cổ đông sáng lập, các chủ thể cần phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Căn cứ theo quy định Điều 120
– Cổ đông sáng lập phải sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông theo quy định của pháp luật;
– Phải thực hiện hoạt động ký tên trong danh sách cổ đông sáng lập công ty cổ phần;
– Cùng với các cổ đông sáng lập khác phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán tại thời điểm doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo đúng trình tự và thủ tục luật định.
1.2. Trách nhiệm thanh toán đủ cổ phần đã đăng ký của cổ đông sáng lập:
Theo phân tích ở trên thì có thể thấy, cổ đông sáng lập phải là chủ thể sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông theo quy định, và cùng với các cổ đông sáng lập khác tiến hành mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán tại thời điểm doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo đúng trình tự và thủ tục luật định. Về bản chất thì có thể thấy, pháp luật hiện nay có quy định cụ thể về trách nhiệm thanh toán đủ cổ phần đã đăng ký mua của cổ đông sáng lập. Căn cứ theo quy định Điều 112 Luật doanh nghiệp năm 2020 có ghi nhận về vấn đề thanh toán cổ phần đã đăng ký mua khi đăng ký doanh nghiệp, cụ thể như sau:
– Các cổ đông phải tiến hành hoạt động thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời gian luật định là 90 ngày được tính kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp điều lệ công ty hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần quy định một thời hạn khác ngắn hơn thời hạn nêu trên, chủ thể có thẩm quyền đó là hội đồng quản trị sẽ phải chịu trách nhiệm giám sát và đôn đốc việc thanh toán đúng thời hạn đối với các cổ phần đã đăng ký mua;
– Trong thời hạn từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo quy định của pháp luật đến ngày cuối cùng phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua theo như phân tích ở trên, số phiếu biểu quyết của các cổ đông sẽ được tính theo số cổ phần phổ thông đã được đăng ký mua, trừ trường hợp điều lệ công ty có quy định khác;
– Sau thời hạn như đã phân tích ở trên, có cổ đông chưa thanh toán hoặc chỉ thanh toán được một phần số cổ phần đã đăng ký mua thì sẽ thực hiện theo quy định như sau:
+ Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua đương nhiên sẽ không còn được coi là cổ đông của công ty, và sẽ không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác theo đúng quy định của pháp luật;
+ Cổ đông chỉ thanh toán một phần số của mình đã đăng ký mua tại thời điểm đăng ký thành lập công ty sẽ có quyền biểu quyết, và nhận lợi tức, cùng với các quyền lợi khác tương ứng với số cổ phần đã thanh toán theo quy định, ngoài ra thì, các cổ đông này cũng không được chuyển nhượng quyền mua số cổ phần chưa thanh toán cho người khác khi chưa được sự đồng ý của hội đồng quản trị;
+ Số cổ phần chưa thanh toán sẽ được coi là cổ phần chưa bán, và hội đồng quản trị sẽ được quyền chào bán theo trình tự, thủ tục luật định;
+ Công ty phải tiến hành hoạt động đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị mệnh giá số cổ phần đã được thanh toán đủ, và cần phải thay đổi cổ đông sáng lập trong thời hạn luật định, đó là 30 ngày, được tính kể từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua theo như phân tích ở trên. Ngoài ra, các cổ đông chưa thanh toán hoặc chưa thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp thì cần phải chịu trách nhiệm tương ứng với tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã đăng ký mua đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời hạn 90 ngày, được tính kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Thành viên trong hội đồng quản trị và người đại diện hợp pháp theo pháp luật sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới về các thiệt hại phát sinh do không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng quy định như đã phân tích ở trên.
2. Hệ quả khi cổ đông sáng lập không thanh toán đủ cổ phần đã đăng ký:
Theo như phân tích ở trên thì có thể thấy, cổ đông sáng lập mà không thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua theo thời hạn luật định, thì đương nhiên sẽ không còn được coi là cổ đông của công ty. Khi đó thì công ty cần phải tiến hành hoạt động đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ, và thay đổi cổ đông sáng lập trong thời hạn theo quy định của pháp luật, là 30 ngày được tính kể từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua. Căn cứ theo quy định tại Nghị định 01/2021/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp, vấn đề thông báo thay đổi thông tin của cổ đông sáng lập trong công ty cổ phần được quy định như sau:
– Cổ đông sáng lập theo quy định của pháp luật doanh nghiệp là cổ đông được kê khai trong danh sách các cổ đông sáng lập, và nộp cho cơ quan có thẩm quyền đó là Phòng đăng ký kinh doanh tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp;
– Việc thông báo thay đổi thông tin của các cổ đông sáng lập sẽ cần phải được thực hiện tại Phòng Đăng ký kinh doanh, và chỉ được thực hiện trong trường hợp cổ đông sáng lập chưa thanh toán hoặc chị thanh toán một phần số cổ phần phổ thông đã đăng ký mua tại thời điểm thành lập doanh nghiệp. Cổ đông sáng lập chưa thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua tại thời điểm thành lập doanh nghiệp sẽ đương nhiên không còn được coi là cổ đông của công ty và bị xóa tên khỏi danh sách cổ đông sáng lập của công ty;
– Doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm thực hiện hoạt động thông báo thay đổi thông tin của cổ đông sáng lập trong thời hạn 30 ngày, được tính kể từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua theo quy định của Luật doanh nghiệp, cụ thể là Điều 112. Trường hợp mà có sự thay đổi nhưng doanh nghiệp không thông báo thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư;
– Đối với trường hợp thay đổi thông tin của cổ đông sáng lập thì công ty cần phải thông báo đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi công ty đã đăng ký thành lập doanh nghiệp, với những nội dung thông báo cơ bản như sau:
+ Tên, mã số doanh nghiệp, mã số thuế hoặc số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (đối với trường hợp doanh nghiệp chưa có mã số doanh nghiệp, mã số thuế);
+ Tên, địa chỉ trụ sở chính, mã số doanh nghiệp hoặc số quyết định thành lập đối với cổ đông sáng lập là tổ chức hoặc họ, tên, số chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, đối với cổ đông sáng lập là cá nhân;
+ Họ, tên, số chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác quy định tại Điều 10 Nghị định này và chữ ký của người đại diện theo pháp luật của công ty.
Khi nhận được thông báo của doanh nghiệp thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần trao giấy biên nhận và kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ, sau khi xét thấy hồ sơ hợp lệ thì sẽ thay đổi thông tin của cổ đông sáng lập trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp có nhu cầu, thì Phòng Đăng ký kinh doanh sẽ cấp giấy xác nhận về việc thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp cho các chủ thể.
Nhìn chung thì có thể thấy, đối với trường hợp thay đổi thông tin cổ đông sáng lập do cổ đông sáng lập chưa hoàn thành thủ tục thanh toán, hoặc chỉ thanh toán được một phần số cổ phần đã đăng ký mua, thì hồ sơ sẽ bao gồm những giấy tờ như:
– Thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp theo mẫu do pháp luật quy định;
– Bản sao hợp lệ của giấy chứng nhận đầu tư; bản sao hợp lệ của giấy chứng nhận đăng ký thuế;
– Các loại giấy tờ cần phải bổ sung theo quy định của Phòng Đăng ký kinh doanh.
3. Cổ đông đăng ký mua cổ phần nhưng chưa thanh toán có được biểu quyết trên tỷ lệ số cổ phần đã đăng ký mua không?
Căn cứ theo Điều 113 của Luật Doanh nghiệp năm 2020, có quy định về thanh toán cổ phần đã đăng ký mua khi đăng ký thành lập doanh nghiệp, cụ thể như sau:
– Các cổ đông phải tiến hành hoạt động thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời gian luật định là 90 ngày được tính kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp điều lệ công ty hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần quy định một thời hạn khác ngắn hơn thời hạn nêu trên, chủ thể có thẩm quyền đó là hội đồng quản trị sẽ phải chịu trách nhiệm giám sát và đôn đốc việc thanh toán đúng thời hạn đối với các cổ phần đã đăng ký mua;
– Trong thời hạn từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo quy định của pháp luật đến ngày cuối cùng phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua theo như phân tích ở trên, số phiếu biểu quyết của các cổ đông sẽ được tính theo số cổ phần phổ thông đã được đăng ký mua, trừ trường hợp điều lệ công ty có quy định khác;
– Cổ đông chỉ thanh toán một phần số của mình đã đăng ký mua tại thời điểm đăng ký thành lập công ty sẽ có quyền biểu quyết, và nhận lợi tức, cùng với các quyền lợi khác tương ứng với số cổ phần đã thanh toán theo quy định, ngoài ra thì, các cổ đông này cũng không được chuyển nhượng quyền mua số cổ phần chưa thanh toán cho người khác khi chưa được sự đồng ý của Hội đồng quản trị.
Như vậy, trừ trường hợp điều lệ công ty bạn có quy định khác, thì mặc dù các chủ thể chưa thanh toán tiền mua cổ phần nhưng trong thời hạn từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đến ngày cuối cùng phải thanh toán đủ số cổ phần bạn đã đăng ký mua, thì các chủ thể vẫn có quyền biểu quyết của các cổ đông được tính theo số cổ phần phổ thông đã được đăng ký mua.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Nghị định 01/2021/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp.