Một số quy định về khuyến mại? Quy định về chủ thể thực hiện hoạt động khuyến mại?
Trong toàn bộ hoạt động của lĩnh vực thương mại, khuyến mại có vai trò quan trọng và là một trong những công cụ thường xuyên được các doanh nghiệp sử dụng để giúp doanh nghiệp đó thúc đẩy khả năng mua hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ của khách hàng. Việc khuyến mại sẽ giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, lợi nhuận và đem lại lợi ích cho doanh nghiệp. Ngoài ra, hình thức khuyến mại cũng là một cách mà các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành được khách hàng. Pháp luật nước ta cũng đã ban hành các quy định cụ thể về hoạt động khuyến mại. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu khuyến mại và quy định về chủ thể thực hiện hoạt động khuyến mại.
Luật sư
1. Một số quy định về khuyến mại:
1.1. Khuyến mại là gì?
Hầu hết chúng ta đều từng tham gia vào việc mua bán hàng hóa khuyến mại. Đây là một hoạt động được hầu hết các doanh nghiệp sử dụng và có những ý nghĩa quan trọng, đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích nhất định. Khuyến mại còn là một hình thức giúp các doanh nghiệp quảng bá sản phẩm và thương hiệu của mình đến với các đối tượng người tiêu dùng.
Ta có thể hiểu hoạt động khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại được diễn ra rất phổ biến của các thương nhân nhằm mục đích xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.
1.2. Đặc điểm của khuyến mại:
Khuyến mại có những đặc điểm cơ bản sau đây:
– Thứ nhất: Chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại phải là thương nhân.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các thương nhân được phép tự mình tổ chức thực hiện việc khuyến mại, cung có thể lựa chọn dịch vụ khuyến mại cho thương nhân khác để kinh doanh. Quan hệ dịch vụ này được hình thành trên cơ sở hợp đồng dịch vụ khuyến mại giữa các thương nhân có nhu cầu khuyến mại và thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại.
– Thứ hai: Cách thức xúc tiến thương mại là dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.
Tùy thuộc vào mục tiêu của các đợt hàng khuyến mại khác nhau mà lợi ích thương nhân dành cho khách hàng có thể là quà tặng, hàng mẫu để dùng thử.
– Thứ ba: Mục đích của khuyến mại là xúc tiến việc bán hàng và cung ứng dịch vụ.
Thương nhân sẽ thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm mục đích chung là để hướng tới việc lôi kéo hành vi mua sắm, sử dụng dịch vụ của khách hàng, giới thiệu sản phẩm mới, kích thích trung gian phân phối chú ý hơn đến hàng hóa của doanh nghiệp.
1.3. Các hình thức khuyến mại:
Các hình thức khuyến mại phổ biến hiện nay bao gồm các hình thức sau đây:
– Hàng mẫu: Đây là một hình thức khuyến mại khá phổ biến. Thương nhân sẽ đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền. Hàng mẫu có thể là hàng đang bán hoặc sẽ được bán trên thị trường.
– Quà tặng: Thương nhân sẽ tặng quà đối với khách hàng có hành vi mua sắm hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ của thương nhân. Hàng hóa, dịch vụ dùng làm quà tặng có thể là hàng hóa, dịch vụ mà thương nhân đang kinh doanh hoặc là hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác.
– Giảm giá: Đây là hành vi bán hàng, cung ứng dịch vụ trong thời gian khuyến mại với giá thấp hơn giá bán, giá cung ứng dịch vụ bình thường trước đó. Được áp dụng trong thời gian khuyến mại mà thương nhân đã đăng ký hoặc thông báo.
– Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ, phiếu dự thi. Với mỗi phương thức thì khách hàng có thể được hưởng lợi ích khác nhau cụ thể như sau:
+ Phiếu mua hàng thường có ý nghĩa giảm giá hoặc có mệnh giá nhất định để thanh toán cho những lần mua sau trong hệ thống bán hàng của thương nhân.
+ Phiếu sử dụng dịch vụ có thể cho phép sử dụng miễn phí theo điều kiện nhà cung ứng đưa ra.
– Thương nhân tổ chức các sự kiện để thu hút khách hàng. Đó là các sự kiện được tổ chức gắn liền hoặc tách rời với việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của khách hàng.
– Các hình thức khuyến mại khác nếu được cơ quan quản lý nhà nước về thương mại chấp thuận.
1.4. Các hoạt động khuyến mại bị cấm:
Nhà nước cấm thương nhân thực hiện các hoạt động khuyến mại sau đây:
– Nhà nước cấm thương nhân thực hiện các hoạt động khuyến mại đối với hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hóa chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng.
– Nhà nước cấm thương nhân thực hiện các hoạt động khuyến mại sử dụng hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại là hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hóa chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng.
– Nhà nước cấm thương nhân thực hiện các hoạt động khuyến mại hoặc sử dụng rượu, bia để khuyến mại cho người dưới 18 tuổi.
– Nhà nước cấm thương nhân thực hiện các hoạt động khuyến mại hoặc sử dụng thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên để khuyến mại dưới mọi hình thức.
– Nhà nước cấm thương nhân thực hiện các hoạt động khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng.
– Nhà nước cấm thương nhân thực hiện các hoạt động khuyến mại để tiêu thụ hàng hóa kém chất lượng, làm phương hại đến môi trường, sức khỏe con người và lợi ích công cộng khác.
– Nhà nước cấm thương nhân thực hiện các hoạt động khuyến mại tại trường học, bệnh viện, trụ sở của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân.
– Nhà nước cấm thương nhân thực hiện các hoạt động khuyến mại hứa tặng, thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng.
– Nhà nước cấm thương nhân thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
– Nhà nước cấm thương nhân thực hiện các hoạt động khuyến mại mà giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại vượt quá hạn mức tối đa hoặc giảm giá hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại quá mức tối đa theo quy định của pháp luật.
2. Quy định về chủ thể thực hiện hoạt động khuyến mại:
Dưới góc độ kinh tế, khuyến mại là một biện pháp kích cầu tiêu dùng được các thương nhân sử dụng trong hoạt động thương mại nhằm thúc đẩy người tiêu dùng mua nhiều hơn các hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp hoặc phân phối.
Dưới góc độ pháp lý, hoạt động khuyến mại được định nghĩa tại khoản 1 Điều 88
Theo Luật thương mại 2005, chủ thể thực hiện khuyến mại là thương nhân thực hiện khuyến mại. Thương nhân là bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Tại Khoản 2 Điều 88 Luật thương mại 2005 quy định nội dung sau đây:
Thương nhân thực hiện khuyến mại là thương nhân thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Thứ nhất: Thương nhân trực tiếp khuyến mại hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh.
– Thứ hai: Thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thự hiện khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác theo thỏa thuận với thương nhân đó.
Chủ thể hoạt động khuyến mại phải là thương nhân. Thương nhân hoạt động khuyến mại tại Việt Nam gồm nhiều loại, bao gồm:
– Phụ thuộc vào quốc tịch của thương nhân, có thể chia thành thương nhân thành hai loại sau:
+ Thứ nhất: Thương nhân Việt Nam.
+ Thứ hai: thương nhân nước ngoài, trong đó thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận. Theo quy định của pháp luật của nước sở tại, thương nhân nước ngoài thực hiện hoạt động khuyến mại thông qua chi nhánh của mình hoặc thông qua hợp đồng dịch vụ khuyến mại ký kết với thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại.
– Phụ thuộc vào mục đích thực hiện quyền hoạt động khuyến mại, có thể chia thành hai loại:
+ Thương nhân tự mình thực hiện khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh trên cơ sở quyền tự do kinh doanh, tự do xúc tiến thương mại trong khuôn khổ của pháp luật mà không cần phải đăng kí kinh doanh để thực hiện quyền khuyến mại.
+ Thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác trên cơ sở hợp đồng dịch vụ khuyến mại bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Trong trường hợp này thương nhân phải có đăng kí kinh doanh dịch vụ khuyến mại.
Theo Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005 quy định nội dung như sau:
“Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.”
Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì chủ thể được phép tiến hàng hoạt động khuyến mại chỉ có thể là những thương nhân có đăng kí kinh doanh. Trong khi đó, xúc tiến thương mại bằng hình thức khuyến mại là nhu cầu của bất ký chủ thể kinh doanh nào (dù có tư cách thương nhân hay không có tư cách thương nhân) và cần được pháp luật ghi nhận bảo hộ.
Theo đó, cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng kí kinh doanh được thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại nói chung, hoạt động khuyến mại nói riêng như thương nhân trừ một số hình thức sau: bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố; Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự chương trình khuyến mại mang tính may rủi; Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên.
Ngoài ra, Điều 91 Luật Thương mại 2005 còn quy định về quyền khuyến mại của thương nhân:
“1. Thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam có quyền tự tổ chức khuyến mại hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện việc khuyến mại cho mình.
2. Văn phòng đại diện của thương nhân không được khuyến mại hoặc thuê thương nhân khác thực hiện khuyến mại tại Việt Nam cho thương nhân mà mình đại diện.”