Việt Nam đã có Luật giao dịch điện tử ngày 29/11/2005, quy định về các giao dịch điện tử.
Việt Nam đã có Luật giao dịch điện tử ngày 29/11/2005, theo đó khi tiến hành giao dịch điện tử trong hoạt đọng công cộng, người sử dụng là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải sử dụng chữ ký số công cộng do Tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng cấp.
Chữ ký điện tử hiểu theo cách phổ thông là thông tin đi kèm theo dữ liệu (văn bản: word , excel, pdf… ; hình ảnh; video…) nhằm mục đích xác định người chủ của dữ liệu đó. Chữ ký số được hiểu như con dấu và chữ ký của doanh nghiệp. Vì vật nó không những chỉ dung trong việc kê khai thuế mà người sử dụng còn có thể sử dụng trong tất cả các giao dịch điện tử cới mọi tổ chức và cá nhân khác..
Theo quy định tại khoản 1 điều 21 Luật giao dịch điện tử chữ ký điện tử là “Chữ ký điện tử được tạo lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh hoặc các hình thức khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách lô gíc với thông điệp dữ liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký.”
– Để đảm bảo an toàn cho chữ ký điện tử điều 22 Luật này quy định:
1. Chữ ký điện tử được xem là bảo đảm an toàn nếu được kiểm chứng bằng một quy trình kiểm tra an toàn do các bên giao dịch thỏa thuận và đáp ứng được các điều kiện sau đây:
a) Dữ liệu tạo chữ ký điện tử chỉ gắn duy nhất với người ký trong bối cảnh dữ liệu đó được sử dụng;
b) Dữ liệu tạo chữ ký điện tử chỉ thuộc sự kiểm soát của người ký tại thời điểm ký;
c) Mọi thay đổi đối với chữ ký điện tử sau thời điểm ký đều có thể bị phát hiện;
d) Mọi thay đổi đối với nội dung của thông điệp dữ liệu sau thời điểm ký đều có thể bị phát hiện.
2. Chữ ký điện tử đã được tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử chứng thực được xem là bảo đảm các điều kiện an toàn quy định tại khoản 1 Điều này.
– Việc sử dụng chữ ký điện tử cần tuân theo các nguyên tắc
1. Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần có chữ ký thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu chữ ký điện tử được sử dụng để ký thông điệp dữ liệu đó đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Phương pháp tạo chữ ký điện tử cho phép xác minh được người ký và chứng tỏ được sự chấp thuận của người ký đối với nội dung thông điệp dữ liệu;
b) Phương pháp đó là đủ tin cậy và phù hợp với mục đích mà theo đó thông điệp dữ liệu được tạo ra và gửi đi.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần được đóng dấu của cơ quan, tổ chức thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bởi chữ ký điện tử của cơ quan, tổ chức đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật này và chữ ký điện tử đó có chứng thực.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 19006568
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay việc rút ngắng khoảng cách giữa không gian, thời gian luôn là một đòi hỏi cấp thiết trong công viêvj kinh doanh. Chữ ký số ra đời giúp doanh nghiệp tiết kiệm rất nhiều thời gian, công sức trong một số công việc giao dịch với ngân hang, cơ quan hành chính…