Biện pháp chống bán phá giá là biện pháp ngăn chặn các biện pháp bán phá giá, bảo đảm thị trường xuất nhập khẩu được hoạt động lành mạnh. Vậy chống bán phá giá là gì? Các biện pháp chống bán phá giá như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Chống bán phá giá là gì?
Phá giá là bán không đúng với giá trị thực của hàng hóa.
Bán phá giá là hiện tượng hàng hóa xuất khẩu ra thị trường nước ngoài với giá thấp hơn giá của mặt hàng đó ở thị trường nước xuất khẩu với mục đích loại trừ đối thủ cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài hoặc tìm kiếm ngoại tệ khẩn cấp.
Chống bán phá giá là tổng hợp những biện pháp cách thức nhằm chống lại các hành vi bán phá giá vào thị trường của một nước hay vùng lãnh thổ. Khi các hành vi bán phá giá thực hiện gây thiệt hại cho các nước nhập khẩu thì tất yếu sẽ có các biện pháp mà nước nhập khẩu đặt ra nhằm ngăn cản sự vi phạm đó. Trong rất nhiều cách thức đó thì việc áp dụng các quy định pháp luật luôn là biện pháp được đặt ra và rất hiệu quả, đặc biệt là các biện pháp thuế quan luôn là chế tài thường áp dụng đối với các mặt hàng được cho là bán phá giá. Nhìn chung, để đảm bảo nền sản xuất trong nước phát triển bền vững các nước luôn tìm cách thức nhất định nhằm chống bán phá giá và việc hình thành các cam kết đa phương là hướng ưu tiên lựa chọn trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới ngày nay.
2. Phân loại bán phá giá:
Bán phá giá gồm hai loại là bán phá giá chớp nhoáng (bán phá giá độc quyền) và bán phá giá không độc quyền.
Bán phá giá chớp nhoáng (bán phá giá độc quyền) là hình thức bán giá xuất khẩu tạm thời thấp hơn giá nội địa để tăng sức cạnh tranh, loại trừ đối thủ. Khi đã đạt được mục đích thì mức giá sẽ được nâng lên ở mức giá độc quyền. Phá giá độc quyền là hành vi vi phạm thô bạo nguyên tắc cạnh tranh vì bản chất của nó là hành vi nhằm độc quyền hóa. Phá giá độc quyền làm hủy hoại cạnh tranh và là nguyên nhân trực tiếp gây ra những bất ổn về kinh tế.
Phá giá độc quyền chia làm hai loại đó là: phá giá chiến lược là hành vi bán phá giá nằm trong một chiến lược cạnh tranh tổng thể của nước xuất khẩu và phá giá cướp đoạt là hành vi định giá thấp hơn nhằm mục đích đẩy đối thủ cạnh tranh vào tình trạng phá sản để giành vị trí độc quyền tại nước nhập khẩu.
Bán phá giá không độc quyền biểu hiện ở loại hình thức bán phá giá bền vững hay còn gọi là chính sách phân biệt về giá cả, bán phá giá bền vững là xu hướng bán sản phẩm trên thị trường thế giới với giá thấp hơn giá nội địa nhằm cực đại lợi nhuận của nhà sản xuất, xuất khẩu hoặc biểu hiện ở loại hình thức bán phá giá không thường xuyên (phá giá chu kỳ) là bán phá giá xuất khẩu thấp để tránh rủi ro của thị trường thế giới và giải quyết vấn đề khó khăn về tài chính mà công ty đang cần giải quyết gấp. Đây là hình thức phá giá mà nhiều doanh nghiệp sử dụng nhằm giải quyết hậu quả của việc sản xuất quá dư thừa loại hàng hóa đó.
Ngoài ra trên thực tế còn có hai hình thức bán phá giá khác đó là bán phá giá đảo ngược (bán phá giá mở rộng thị trường) là định giá đối với thị trường nước ngoài cao hơn so với trong nước. Đây là việc nhà sản xuất bán hàng hóa với giá cao ở trong nước nhằm hỗ trợ cho giá thấp ở thị trường xuất khẩu và hình thức bán phá giá qua lại, bán phá giá qua lại tạo ra sự chênh lệch về giá (khi hàng hóa trong nước và ngoài nước không có sự khác biệt về giá), từ đó thương mại quốc tế sẽ xảy ra.
3. Các biện pháp chống bán phá giá:
Theo Điều 77 Luật quản lý ngoại thương năm 2017 quy định về các biện pháp chống bán phá giá như sau:
“1. Biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam (sau đây gọi là biện pháp chống bán phá giá) là biện pháp được áp dụng trong trường hợp hàng hóa được xác định bị bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam gây ra thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước.
2. Hàng hóa được xác định bị bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam với giá thấp hơn giá thông thường là giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự bán tại nước xuất khẩu hoặc tại một nước thứ ba trong các điều kiện thương mại thông thường hoặc mức giá mà Cơ quan điều tra xác định bằng phương pháp tự tính toán.
3. Các biện pháp chống bán phá giá bao gồm:
a) Áp dụng thuế chống bán phá giá;
b) Cam kết về các biện pháp loại trừ bán phá giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, xuất khẩu hàng hóa bị yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá với Cơ quan điều tra của Việt Nam hoặc với các nhà sản xuất trong nước nếu được Cơ quan điều tra chấp thuận.”
Thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung bên cạnh thuế nhập khẩu thông thường, đánh vào sản phẩm nước ngoài bị bán phá giá vào nước nhập khẩu. Đây là loại thuế nhằm chống lại việc bán phá giá và loại bỏ những thiệt hại do việc hàng nhập khẩu bán phá giá gây ra. Trên thực tế, thuế chống bán phá giá được nhiều nước sử dụng như một hình thức “bảo hộ hợp pháp” đối với sản xuất nội địa của mình. Để ngăn chặn hiện tượng lạm dụng biện pháp này, các nước thành viên WTO đã cùng thỏa thuận về các quy định bắt buộc phải tuân thủ liên quan đến việc điều tra và áp đặt thuế chống bán phá giá, tập trung trong một Hiệp định về chống bán phá giá của WTO – Hiệp định ADA.
Cam kết về các biện pháp loại trừ chống bán phá giá: Đây là biện pháp thường áp dụng trong khi gia nhập các tổ chức đa phương về thương mại, và các chủ thể chủ yếu là cá nhân, tổ chức hay là chính phủ của một nước nào đó. Việc áp dụng các cam kết này chưa thật sự được thực hiện tại Việt Nam vì chúng ta chưa đủ các điều kiện cần thiết để đáp ứng các yêu cầu đó, các cam kết này mang tính tự nguyện thực thi cũng như phải chấp nhận các chế tài khi vi phạm vào đó, việc cam kết này chỉ có hiệu lực đối với nước đã cam kết mà không áp dụng đối với các nước không tham gia. Thường thì các biện pháp loại trừ chống bán phá giá sẽ được áp dụng trước nếu trước đó đã cam kết thay vì áp dụng thuế chống bán phá giá.
4. Điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá:
Theo quy định Điều 78 Luật quản lý ngoại thương năm 2017 quy định về điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá như sau::
– Áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam bị bán phá giá với biên độ bán phá giá được xác định cụ thể, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 78 Luật quản lý ngoại thương 2017;
b) Ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước;
c) Tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa việc nhập khẩu hàng hóa bị bán phá giá quy định tại điểm a khoản này với thiệt hại của ngành sản xuất trong nước quy định tại điểm b khoản 1 Điều 78 Luật quản lý ngoại thương năm 2017.
– Không áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu mà có biên độ bán phá giá không vượt quá 2% giá xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam.
– Trong trường hợp hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ một nước có khối lượng hoặc số lượng không vượt quá 3% tổng khối lượng hoặc số lượng hàng hóa tương tự nhập khẩu vào Việt Nam và tổng khối lượng hoặc số lượng hàng hóa có xuất xứ từ các nước đáp ứng điều kiện trên không vượt quá 7% tổng khối lượng hoặc số lượng hàng hóa tương tự nhập khẩu vào Việt Nam thì các nước này được loại khỏi phạm vi áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
Thực hiện biện pháp khi có các hành vi bán phá giá: trong những năm qua việc Việt Nam luôn bị kiện bán phá giá đã cho ta một bài học đắt giá về hậu quả của bị xử thua, trong thời kì hội nhập việc chủ động kiện khi bị bán phá giá là một biện pháp thiết thực và cần thiết hiện nay. Tuy nhiên, việc phải chuẩn bị là rất nhiều trong đó cơ sở pháp lý là điều cần thiết và một đội ngũ các doanh nghiệp đoàn kết là con đường để có thể kiện thành công và thắng lợi. Thuận lợi của chúng ta hiện nay là việc chúng ta đã gia nhập WTO với Hiệp định Chống bán phá giá của tổ chức này và các văn bản pháp lý về chống bán phá giá ở trong nước chúng ta có đủ cơ sở pháp lý cần thiết để tiến hành các vụ kiện và thắng lợi.
Như vậy, việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá là điều cần thiết để bảo vệ lợi ích của các ngành sản xuất trong nước phát triển ngày một tốt hơn.