Chưa ly hôn mà muốn chia tài sản có được không? Nguyên tắc phân chia tài sản chung khi ly hôn? Có quyền chia tài sản cho vợ hai hay không? Vấn đề chia tài sản đối với ly hôn có yếu tố nước ngoài? Vợ bé có quyền kiện đòi chia tài sản không?
Tóm tắt câu hỏi:
Vợ chồng em kết hôn từ năm 1994 đến nay đã được 23 năm. Chúng em sinh được 2 người con gái, cháu lớn năm nay 22 tuổi, cháu bé 17 tuổi. Trong quá trình sin sống chúng em có mua được 1 chiếc xe máy mang tên Airblade và 1 căn nhà mái bằng có diện tích 72m2, 1 công trình phụ 20m2. Tuy nhiên căn nhà và công trình phụ lại nằm trên đất đứng tên bố chồng em.
Trước kia bố chồng em có nói sẽ cho vợ chồng em miếng đất này nhưng đến thời điểm hiện tại bố chồng em vẫn chưa sang tên cho chúng em. Năm 2009, chúng em có mua của anh trai chồng 1 thổ đất có giá trị 190 triệu nhưng hiện tại anh trai chồng em vẫn chưa sang tên cho chúng em. Trong quá trình chồng em đi làm ăn xa tại thành phố Lào Cai đã ngoại tình với 1 người phụ nữ khác và có 1 bé trai 3 tuổi.
Năm 2016 chồng em có mua 1 miếng đất tại thành phố Lào Cai trị giá 500.000.000 đến 600.000.000 Hiện tại bây giờ chồng em muốn làm đơn li hôn với em để đên với người phụ nữ kia nhưng em ko đồng ý kí đơn và anh ta nói sẽ li hôn đơn phương em. Vậy cho em hỏi luật sư nếu li hôn mẹ con em sẽ được hưởng quyền lợi về tài sản như thế nào và mẹ con em cần làm gì đê được hưởng quyền lợi tốt nhất mà không vi phạm pháp luật. Em xin cảm ơn.?
Luật sư tư vấn:
Đối với căn nhà và công trình phụ nằm trên mảnh đất đứng tên bố chồng bạn:
Tại Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”
Luật hôn nhân gia đình 2014, điều 61 quy định như sau:
“Điều 61. Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình
1. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này.”
Mặt khác, tại Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 có quy định “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”
Hiện tại, bố chồng bạn vẫn đang là người đứng tên trên sổ đỏ, vì vậy, theo quy định trên thì bố chồng bạn là chủ sử dụng hợp pháp phần diện tích đất mà bố chồng bạn đang đứng tên. Như vậy, miếng đất đứng tên bố chồng bạn không thuộc tài sản chung của vợ chồng bạn và không được chia khi ly hôn mà chỉ những tài sản chung của vợ chồng mới được chia theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp của bạn, chiếc xe Airblade và ngôi nhà sẽ là tài sản chung của vợ chồng bạn. Vì thế khi hai vợ chồng bạn ly hôn, giá trị ngôi nhà và giá trị chiếc xe máy sẽ được chia đôi theo quy định của pháp luật.
Đối với mảnh đất có giá trị 190 triệu vợ chồng bạn mua của anh trai chồng vào năm 2009: Vì thông tin bạn cung cấp không đầy đủ, vợ chồng bạn và anh trai chồng thực hiện giao dịch chuyển nhượng đất đai nếu có làm hợp đồng và công chứng tại văn phòng công chứng theo quy định của Luật Đất đai, người sử đụng đất thực hiện các quyền của mình phải lập thành văn bản và có công chứng, chứng thực hợp đồng thì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bạn và anh trai chồng là hợp pháp và phát sinh hiệu lực pháp luật.
Tuy nghiên, khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thông thường các bên sẽ thực hiện đồng thời việc cấp lại sổ đỏ mang tên chủ sở hữu quyền mới. Trường hợp của bạn, vợ chồng bạn và anh trai chưa sang tên sổ đỏ và tiến hành đăng kí biến động nên về mặt giấy tờ vẫn mang tên anh trai chồng, nhưng trên thực tế về mặt pháp luật nếu các bên đã kí hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì mảnh đất đó thuộc quyền sử dụng của vợ chồng bạn. Như vậy, đây cũng được coi là tài sản chung của hai vợ chồng hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Vì thế, khi ly hôn, quyền sử dụng đối với mảnh đất này cũng sẽ được chia đôi.
Theo quy định tại điều 92 Luật Hôn nhân và gia đình thì việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn như sau:
“1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”
Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
2. Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con
Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác”.
Trong trường hợp của bạn, hai vợ chồng sẽ thỏa thuận về người sẽ nuôi người con gái 17 tuổi và người còn lại phải có nghĩa vụ cấp dưỡng để người kia trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng cháu cho đến khi thành niên (18 tuổi). Còn đối với người con đã 22 tuổi (đủ 18 tuổi) thì việc cháu muốn ở với ai đó là ý chí của cháu và cha mẹ không phải cấp dưỡng nuôi con đối với cháu. Nếu vợ chồng cô không thỏa thuận được thì có thể nhờ tòa án giải quyết.
Đối với mảnh đất chồng bạn mua tại Lào Cai: Nếu chồng bạn chứng minh được quyền sử dụng đất này có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng của chồng bạn thì khi ly hôn, chồng bạn vẫn giữ quyền sử dụng đối với mảnh đất này, còn nếu anh ta không có căn cứ để chứng minh tài sản này là tài sản riêng thì tài sản này được coi là tài sản chung và sẽ được chia theo nguyên tắc của pháp luật.
Luật sư
Ngoài ra, việc chồng bạn ngoại tình, sống chung với người khác và có con riêng là yếu tố lỗi của chồng làm căn cứ dẫn đến ly hôn. Khi ly hôn, việc chia tài sản chung có tính đến yếu tố “lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” cũng như các yếu tố khác. Cụ thể, có xem xét đến các yếu tố khác, mà theo luật định thì hành vi ngoại tình là một trong yếu tố được xem xét.
Tại Khoản 2 khoản 3 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
“2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.”
Như vậy, hành vi ngoại tình của chồng bạn là một trong những yếu tố để xác định lỗi trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. Theo đó, Tòa án có thể xem xét làm căn cứ để quyết định phần tài sản mà chồng bạn được chia sẽ ít hơn bạn khi phân chia tài sản chung của vợ chồng.
Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, nếu vợ chồng bạn nhận thức được vấn đề pháp luật quy định nêu trên thì hai bên nên tự thỏa thuận về việc phân chia tài sản. Nếu hai bên không tự thỏa thuận được mới nhờ Tòa án giải quyết phần tài sản chung.
Mục lục bài viết
- 1 1. Chưa ly hôn mà muốn chia tài sản có được không?
- 2 2. Nguyên tắc phân chia tài sản chung khi ly hôn
- 3 3. Có quyền chia tài sản cho vợ hai hay không?
- 4 4. Vấn đề chia tài sản đối với ly hôn có yếu tố nước ngoài
- 5 5. Vợ bé có quyền kiện đòi chia tài sản không?
- 6 6. Tư vấn chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn
1. Chưa ly hôn mà muốn chia tài sản có được không?
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào luật sư. Tôi có vấn đề sau nhờ luật sư tư vấn giúp tôi. Vợ chồng tôi lấy nhau đã 5 năm, có tạo lập được khối tài sản là nhà đất, xe ô tô và khoản tiền tiết kiệm gửi ngân hàng. Vì công việc kinh doanh, chúng tôi muốn phân chia tài sản riêng biệt thế nào cho đúng luật tránh tranh cãi về sau?
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Vợ chồng bạn hoàn toàn có quyền thoả thuận phân chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng dựa trên sự thoả thuận và phải được lập thành văn bản. Văn bản thoả thuận phải được công chứng theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Trường hợp hai vợ chồng bạn không thể thoả thuận thì có quyền yêu cầu toà án giải quyết theo quy định tại Khoản 1, Điều 38
Văn bản chia tài sản chung của vợ chồng bạn phải có những nội dung chính sau đây:
a) Thông tin của vợ, chồng ;
b) Phần tài sản chia (cần được mô tả rõ);
c) Phần tài sản chung còn lại không chia;
d) Thời điểm chia và có hiệu lực;
e) Các nội dung khác (nếu có);
Văn bản thoả thuận chia tài sản của vợ chồng bạn cần ghi rõ ngày, tháng, năm và có đủ chữ ký của hai vợ chồng và để bảo đảm hiệu lực và giá trị pháp lý vợ chồng bạn nên yêu cầu công chứng, chứng thực đối với thoả thuận của mình theo quy định.
2. Nguyên tắc phân chia tài sản chung khi ly hôn
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật sư! Em có một số vấn đề muốn nhờ Luật sư tư vấn giúp. Gia đình em có bốn người: bố, mẹ và hai chị em gái em. Em đã lập gia đình nhưng hai vợ chồng em vẫn sống chung cùng bố mẹ đẻ của em và em gái em. Vài năm gần đây bố em có sa ngã vào cờ bạc lô đề và đã nợ người ta số tiền là 200 triệu đồng. Mẹ em đã đứng ra giúp bố em vay mượn tiền họ hàng để trả nợ cho chủ nợ lô đề với điều kiện mỗi tháng bố em đi làm và phải trả nợ cho họ hàng 4 triệu 1 tháng. Bố em đồng ý.
Sau một thời gian vừa đi làm vừa trả nợ bố em lại tiếp tục chơi cờ bạc nhưng lần này nợ 20 triệu đồng thôi. Mẹ em lại đứng ra vay mượn lần nữa cho bố em cộng cả nợ cũ và mới vào thì mỗi tháng bố em phải trả 6 triệu đồng. Tính đến thời điểm này bố e mới trả được 80 triệu đồng. Và bây giờ bố em lại vấp vào con đường này một lần nữa. Giờ bố em đòi bán nhà để trả nợ. Giờ đang nghĩ đến chuyện bố mẹ em sẽ ly hôn và ai đi đường nấy. Nhưng nếu ly hôn thì căn nhà đang ở là tài sản chung duy nhất của bố mẹ em.
Giờ muốn ly hôn nhưng không biết phải làm như thế nào để mẹ có thể được phần nhiều của căn nhà. Vì giờ tuy em đã lấy chồng còn có thể về nhà chồng ở nhưng còn mẹ em và em gái em mới 19 tuổi chưa có công ăn việc làm và học hành cũng dang dở giờ đang nghỉ ở nhà. Em muốn hỏi luật sư là có cách nào để mình giành được tài sản về mình phần nhiều hơn không? Em rất mong được sự tư vấn giúp đỡ của luật sư!
Luật sư tư vấn:
Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn như sau:
– Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật hôn nhân và gia đình 2014.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 để giải quyết.
– Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
+ Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
+ Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
+ Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
+ Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
– Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
– Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
– Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
– Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.
Trường hợp của bạn, nếu bố mẹ bạn ly hôn, nếu không thỏa thuận được thì mẹ bạn có thể yêu cầu được quyền sở hữu căn nhà sau khi ly hôn (Vì bà không có chỗ nào để đi, ngoài ra còn phải nuôi em gái bạn ăn học – 19 tuổi) và thanh toán cho bố bạn phần giá trị chênh lệch.
Ngoài ra, mẹ bạn có thể yêu cầu Tòa án giải quyết khoản nợ do bố bạn đánh bạc, và người đứng ra vay tiền trả nợ thay là mẹ bạn (Lấy xác nhận của những người cho vay là mẹ bạn vay để trả nợ lô đê của bố bạn). Và có thể yêu cầu khoản nợ này khấu trừ vào phần giá trị chênh lệch.
3. Có quyền chia tài sản cho vợ hai hay không?
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi kết hôn với vợ tôi và có một người con chung. Chúng tôi có ba mảnh đất đều mang tên cả hai vợ chồng. 5 năm trước vợ tôi lâm bệnh nặng nên qua đời, tôi đi bước nữa và kết hôn với một người phụ nữ đã có một con. Nay tôi muốn để lại cho vợ hai và người con riêng của cô ấy hai mảnh đất, con chung của tôi với người vợ cả đã mất một mảnh đất. Nhưng người con chung với vợ cả lại không đồng ý. Tôi chia tài sản như vậy có phù hợp với quy định của pháp luật không?
Luật sư tư vấn:
Theo quy định của pháp luật, khối tài sản (ba mảnh đất) này là tài sản chung của bạn và người vợ cả. Nay người vợ cả đã mất thì một nửa khối tài sản này thuộc quyền sở hữu của bạn, một nửa còn lại là di sản thừa kế của người vợ cả. Nếu vợ cả không có di chúc, thì phần di sản này được chia theo pháp luật.
Tại Điều 651 Bộ luật dân sự 2015, hàng thừa kế được quy định như sau:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Theo đó, ba mảnh đất mang tên bạn và người vợ đã mất được xác định là tài sản chung của vợ chồng bạn. Vì vậy, một nửa khối tài sản này thuộc về quyền sở hữu của bạn nên bạn hoàn toàn có quyền chia tài sản theo nguyện vọng của bản thân.
Còn phần di sản thừa kế của vợ cả (tức một nửa khối tài sản chung này), thì sẽ được chia theo pháp luật, những người được hưởng thừa kế bao gồm: bố mẹ ruột, chồng và người con của người vợ cả.
Như vậy, bạn chỉ có quyền chia tài sản trong phạm vi một nửa khối tài sản chung và phần tài sản mà bạn được thừa kế từ di sản của người vợ cả.
4. Vấn đề chia tài sản đối với ly hôn có yếu tố nước ngoài
Vấn đề chia tài sản sau khi ly hôn có yếu tố nước ngoài là một trong những vấn đề hết sức nhạy cảm đối với việc giải quyết ly hôn nói chung và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Hiện nay, theo quy định của
Trong trường hợp tài sản ở Việt Nam thì vấn đề chia tài sản sẽ được áp dụng pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Theo quy định từ Điều 59 đến Điều 64 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam đã có những quy định cụ thể về vấn đề chia tài sản khi ly hôn. Trong những quy định đó còn ghi nhận những nguyên tắc thể hiện quan điểm của Nhà nước về vấn đề này
Ngoài Luật Hôn nhân và gia đình 2014, để áp dụng pháp luật một cách triệt để, đúng đắn trong việc chia tài sản sau khi ly hôn, Tòa án không những áp dụng quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam mà còn phải vận dụng quy định trong Bộ luật dân sự 2015, Luật Đất đai 2013 ( đối với tài sản là quyền sử dụng đất), cũng như các văn bản pháp luật có liên quan.
Có thể nói pháp luật nước ta đã có những quy định về vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, các quy định hướng dẫn cụ thể về ly hôn có yếu tố nước ngoài vẫn còn hạn chế, chưa được đầy đủ là nguyên nhân dẫn đến khó khăn cho các cơ quan hữu quan trong việc thực thi nhiệm vụ của mình về quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.
5. Vợ bé có quyền kiện đòi chia tài sản không?
Tóm tắt câu hỏi:
Chị A và anh B lấy nhau 10 năm có với nhau được 2 đứa con. Đến năm thứ 11 anh B có vợ bé là C và C cũng sinh được 1 đứa con. Một ngày nọ C đưa con đến đòi chia tài sản với chị A? C đòi chia tài sản như vậy có đúng không?
Luật sư tư vấn:
Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định tài sản chung của vợ chồng như sau:
– Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
– Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
– Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định tài sản riêng của vợ, chồng:
– Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
– Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.
Theo quy định Luật hôn nhân và gia đình 2014, nếu đây là khối tài sản chung của chị A và anh B hay là tài sản riêng của anh B thì chị C yêu cầu chia tài sản là không có căn cứ bởi chị C không có công sức đóng góp trong khối tài sản chung của A và B.
Con chị C còn nhỏ, chị C có quyền yêu cầu anh B phải cấp dưỡng cho con. Chị C không có quyền yêu cầu chia tài sản.
6. Tư vấn chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn
Tóm tắt câu hỏi:
Năm 1982 vợ chồng tôi được cấp 1 mảnh đất ở, năm 1984 vợ tôi ký giấy giao mảnh đất trên cho tôi toàn quyền sử dụng và có trách nhiệm nuôi tất hai con, năm 1985 tòa giải quyết cho ly hôn, cô ấy đi lấy 3 đời chồng nữa, nay đã 33 năm tôi nuôi các con học hành đầy đủ có việc làm và đi lấy chồng, nay cô ấy về đòi chia mảnh đất mà cô ấy đã giao cho tôi trước khi ly hôn. Năm 1992 tôi đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rồi, luật sư cho tôi hỏi tôi có phải chia mảnh đất trên là tài sản riêng của tôi trước khi ly hôn hay không?
Luật sư tư vấn:
Theo thông tin bạn cung cấp, năm 1984, vợ chồng bạn thỏa thuận về vấn đề phân chia tài sản chung của vợ chồng, tuy nhiên, vào thời điểm này, Luật Hôn nhân và gia đình 1959 không có quy định cụ thể về vấn đề thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; vì vậy, việc thỏa thuận chia tài sản của vợ chồng bạn vào năm 1984 là không có căn cứ.
Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình 1959 quy định chia tài sản khi ly hôn như sau:
“Khi ly hôn, việc chia tài sản sẽ căn cứ vào sự đóng góp về công sức của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình. Lao động trong gia đình được kể như lao động sản xuất.
Khi chia phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của con cái và lợi ích của việc sản xuất.”
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài:1900.6568
Theo như bạn trình bày, vợ chồng bạn ly hôn năm 1985, không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung vợ chồng. Nay vợ bạn có căn cứ chứng minh đây là tài sản chung của hai vợ chồng thì vợ bạn vẫn có quyền yêu cầu phân chia tài sản chung bởi giấy thỏa thuận phân chia năm 1984 không có giá trị pháp lý.