Tai nạn lao động ảnh hưởng lớn đến tính mạng và sức khỏe của người lao động, cản trở sự phát triển của xã hội. Dưới đây là quy định của pháp luật về chế độ đối với trường hợp tai nạn lao động suy giảm dưới 5%.
Mục lục bài viết
- 1 1. Chế độ đối với trường hợp tai nạn lao động suy giảm dưới 5%:
- 2 2. Tai nạn lao động làm suy giảm khả năng lao động dưới 5% có được hưởng chế độ tai nạn lao động do bảo hiểm xã hội chi trả không?
- 3 3. Trường hợp người lao động không được hưởng chế độ từ người sử dụng lao động khi bị tai nạn lao động:
1. Chế độ đối với trường hợp tai nạn lao động suy giảm dưới 5%:
Căn cứ theo quy định tại Điều 38 của Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015 có quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động khi người lao động đó bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Theo đó, người sử dụng lao động sẽ phải có trách nhiệm đối với người lao động khi họ bị tai nạn lao động như sau:
– Sơ cứu kịp thời, cấp cứu kịp thời cho những người lao động bị tai nạn lao động, tạo ứng các khoản chi phí cho hoạt động sơ cứu và cấp cứu, phục vụ cho quá trình điều trị của người lao động khi họ bị tai nạn lao động hoặc bị bệnh nghề nghiệp;
– Người sử dụng lao động sẽ phải có trách nhiệm thanh toán chi phí y tế, từ hoạt động sơ cứu, cấp cứu cho đến khi điều trị ổn định cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Cụ thể như sau:
+ Thanh toán các phần chi phí đồng chi trả, chi phí không nằm trong danh mục do cơ quan bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động có tham gia hoạt động bảo hiểm y tế;
+ Chi phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với người lao động có kết luận suy giảm khả năng lao động dưới 5%, do người sử dụng lao động giới thiệu người lao động đó đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động tại cơ quan có thẩm quyền đó là Hội đồng giám định y khoa;
+ Thanh toán toàn bộ chi phí y tế đối với những người lao động khi họ không tham gia hoạt động bảo hiểm y tế.
– Trả đầy đủ tiền lương cho người lao động khi người lao động đó bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cần phải nghỉ việc trong phản thời gian điều trị và phục hồi chức năng;
– Bồi thường cho người lao động khi người lao động đó bị tai nạn lao động, việc xảy ra tai nạn lao động không phải do lỗi của người lao động gây ra, và cho người lao động bị bệnh nghề nghiệp với mức bồi thường cụ thể như sau:
+ Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương nếu như người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 10%, sau đó cứ tăng thêm 1% thì người lao động sẽ được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương nếu như họ bị suy giảm khả năng lao động với tỷ lệ từ 11% đến 80%;
+ Bồi thường ít nhất bằng 30 tháng tiền lương đối với người lao động khi người lao động đó bị suy giảm khả năng lao động từ tỷ lệ 81% trở lên, hoặc bồi thường cho thân nhân của người lao động khi người lao động đó bị chết do nguyên nhân họ bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp.
– Chi trả trợ cấp cho người lao động khi người lao động đó bị tai nạn lao động, tai nạn lao động đó do lỗi của người lao động gây ra một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức bồi thường theo như phân tích nêu trên, với mức suy giảm khả năng lao động tương ứng;
– Giới thiệu để người lao động bị tai nạn lao động, người lao động bị bệnh nghề nghiệp được quyền giám định y khoa, xác định mức độ suy giảm khả năng lao động, được quyền điều trị và điều dưỡng, phục hồi chức năng lao động theo quy định của pháp luật;
– Thực hiện hoạt động bồi thường, chi trả trợ cấp đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong khoảng thời gian năm ngày được tính kể từ ngày có kết luận của hội đồng giám định y khoa về mức độ suy giảm khả năng lao động của người lao động đó, hoặc tính bắt đầu kể từ ngày đoàn kiểm tra tai nạn lao động công bố đầy đủ biên bản điều tra về lĩnh vực tai nạn lao động đối với các vụ lao động gây chết người;
– Sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe theo kết luận của hội đồng giám định y khoa đối với những người lao động khi họ bị tai nạn lao động, hoặc người lao động bị bệnh nghề nghiệp sau khi những người lao động đó đã điều trị và phục hồi chức năng, vẫn có nhu cầu tiếp tục làm việc;
– Lập hồ sơ hưởng chế độ về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ quỹ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phù hợp với quy định của pháp luật;
– Tiền lương để làm cơ sở thực hiện các chế độ bồi thường, trợ cấp, chi trả tiền lương cho người lao động nghỉ việc xuất phát từ nguyên nhân họ bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về an toàn và vệ sinh lao động, tiền lương trong trường hợp này sẽ bao gồm mức lương, phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật về lao động;
– Bộ trưởng Bộ lao động thương binh và xã hội là cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định cụ thể, hướng dẫn chi tiết quá trình thực hiện các điều luật nêu trên.
Như vậy có thể nói, khi người lao động bị tai nạn lao động, việc chi trả viện phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với những người lao động có kết luận suy giảm khả năng lao động dưới 5% sẽ do người sử dụng lao động chi trả, trong trường hợp việc đi giám định mức suy giảm khả năng lao động đó là do người sử dụng lao động giới thiệu tại Hội đồng giám định y khoa. Hay nói cách khác, chế độ đối với trường hợp tai nạn lao động suy giảm dưới 5% là khá ít, hầu như sẽ được quy định trong trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động khi họ bị tai nạn lao động căn cứ theo quy định tại Điều 38 của Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015 theo như phân tích nêu trên.
2. Tai nạn lao động làm suy giảm khả năng lao động dưới 5% có được hưởng chế độ tai nạn lao động do bảo hiểm xã hội chi trả không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 45 của Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015 có quy định về điều kiện để được hưởng chế độ lao động. Theo đó, người lao động tham gia bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sẽ thuộc đối tượng được hưởng chế độ tai nạn lao động khi người lao động đó đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
– Tai nạn lao động thuộc một trong những trường hợp sau:
+ Tai nạn lao động xảy ra tại nơi làm việc, trong giờ làm việc, kể cả khi người lao động đó đang thực hiện các nhu cầu sinh hoạt cá nhân, cần thiết tại nơi làm việc hoặc trong giờ làm việc mà pháp luật về lao động có quy định hoặc nội qui của các cơ sở sản xuất kinh doanh cho phép, trong đó bao gồm thời gian nghỉ giải lao, ăn uống giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, làm vệ sinh kinh nguyệt đối với phụ nữ, tắm rửa, cho con bú hoặc đi vệ sinh;
+ Tai nạn lao động xảy ra ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi người lao động đó thực hiện các công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động, hoặc người được người sử dụng lao động ủy quyền bằng văn bản hợp pháp có trách nhiệm quản lý lao động trực tiếp;
+ Tai nạn lao động xảy ra trên đường di chuyển từ nơi ở đến nơi làm việc của người lao động, hoặc từ nơi làm việc và nơi ở, trong thời gian và trong tuyến đường hợp lý.
– Suy giảm khả năng lao động với mức độ từ 5 % trở lên xuất phát từ nguyên nhân do bị tai nạn lao động thuộc một trong những trường hợp nêu trên;
– Người lao động sẽ không được hưởng chế độ do quỹ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp chi trả nếu họ thuộc một trong những nguyên nhân quy định cụ thể tại Điều 40 của Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015.
Như vậy có thể nói, căn cứ theo điều luật phân tích nêu trên, trong trường hợp người lao động bị tai nạn lao động, tuy nhiên mức suy giảm khả năng lao động của người lao động đó dưới 5%, thì họ sẽ không được hưởng chế độ tai nạn lao động do cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả.
3. Trường hợp người lao động không được hưởng chế độ từ người sử dụng lao động khi bị tai nạn lao động:
Căn cứ theo quy định tại Điều 40 của Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015, người lao động sẽ không được hưởng chế độ từ người sử dụng lao động căn cứ theo quy định tại Điều 38 và Điều 39 của Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015 nếu người lao động đó bị tai nạn lao động thuộc một trong những nguyên nhân cơ bản sau đây:
– Xuất phát từ mâu thuẫn của chính nạn nhân với người gây ra tai nạn mà không liên quan đến quá trình thực hiện công việc và nhiệm vụ lao động;
– Nguyên nhân xảy ra tai nạn lao động là do người lao động có hành vi tự tiện hủy hoại sức khỏe của bản thân;
– Nguyên nhân xảy ra tai nạn lao động xuất phát từ việc người lao động có hành vi sử dụng ma túy, sử dụng chất gây nghiện khác trái với quy định của pháp luật.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015.