Chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi là gì? Chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi Tiếng Anh là gì? Quy định của pháp luật về chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi? Giải quyết trường hợp phạm nhân nữ sinh con và nuôi con đủ 36 tháng tuổi trở lên?
Bản án, quyết định của
Tổng đài luật sư
Căn cứ pháp lý:
–
– Luật thi hành án hình sự 2019
– Nghị định 133/2020/NĐ-CP Hướng dẫn Luật thi hành án hình sự
1. Chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi là gì?
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 3 Luật thi hành án hình sự 2019: Phạm nhân là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân. Chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi là hệ thống các quy định của pháp luật đối với trường hợp phạm nhân nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi gồm: Chế độ về nơi ở, chế độ y tế, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi..
2. Chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi Tiếng Anh là gì?
Chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi Tiếng Anh là: “The regime for pregnant female prisoners, raising children under 36 months old”
3. Quy định của pháp luật về chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi
3.1 Cơ sở pháp lý chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi
Hiện nay, chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi được quy định cụ thể tại Điều 51 Luật thi hành án hình sự 2019 và được hướng dẫn chi tiết tại Điều 10 Nghị định 133/2020/NĐ-CP Hướng dẫn Luật thi hành án hình sự
3.2 Đối tượng hưởng chế độ với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi
Đối tượng hưởng chế độ phải đáp ứng đủ các tiêu chí sau:
– Là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân
– Là phụ nữ có thau hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi
3.3 Chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi
Chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi được áp dụng như sau:
Về nơi ở:
Trường hợp phạm nhân nữ có thai không được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thì được bố trí chỗ nằm tối thiểu 03 m2/phạm nhân. Quy định này nhằm giúp tạo điều kiện để phạm nhân nữ có một không gian tối thiểu phục vụ sinh hoạt và thoải mái hơn trong thai kỳ.
Về chế độ ăn, điều kiện vật chất:
Phạm nhân nữ trong thời gian mang thai, nghỉ sinh con hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi trong cơ sở giam giữ phạm nhân thì tổng định lượng ăn bằng 02 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường so với định lượng quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định 133/2020/NĐ-CP Hướng dẫn Luật thi hành án hình sự và được hoán đổi theo chỉ định của y sĩ hoặc bác sĩ; phạm nhân nữ sinh con trong trại giam được cấp các đồ dùng cần thiết cho việc chăm sóc trẻ sơ sinh tương đương 01 tháng định lượng ăn của trẻ em là con phạm nhân theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Nghị định 133/2020/NĐ-CP Hướng dẫn Luật thi hành án hình sự
Về điều kiện chăm sóc y tế:
Trong thời gian nghỉ sinh con, phạm nhân được bảo đảm tiêu chuẩn, định lượng ăn theo chỉ dẫn của y sỹ hoặc bác sỹ, được cấp phát thực phẩm, đồ dùng cần thiết cho việc chăm sóc trẻ sơ sinh
Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi: Phạm nhân nữ có thai được nghỉ lao động trước và sau khi sinh con theo quy định của pháp luật về lao động. Phạm nhân nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi được bố trí thời gian phù hợp để chăm sóc, nuôi dưỡng con.
Có thể thấy pháp luật đã có những quy định rất nhân văn đối với những trường hợp phạm nhân là nữ đang mang thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Xuất phát từ thực tế: Người phạm tội là người mẹ còn đứa trẻ trong bụng không hề gây nên lỗi lầm. Mọi trẻ em đều xứng đáng được hưởng quyền công dan của mình, đó là quyền được nuôi dưỡng và giáo dục trong một điều kiện tốt nhất. Việc tạo điều kiện về chỗ ăn, nơi ở và chế độ chăm sóc y tế nhằm giúp cho phạm nhân nữ có một thai kỳ khỏe mạnh, đảm bảo điều kiện tốt nhất trong phạm vi có thể để đứa trẻ được nuôi dường và chào đời như bao đứa trẻ khác bên ngoài cánh cổng trai giam.
3.4 Chế độ ăn của trẻ em dưới 36 tháng tuổi là con của phạm nhân ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ phạm nhân
Khoản 3, Điều 51 Trẻ em dưới 36 tháng tuổi, trẻ em từ 36 tháng tuổi trở lên trong thời gian chờ đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội là con của phạm nhân ở cùng mẹ trong trại giam được hưởng chế độ ăn, mặc, ở, cấp phát nhu yếu phẩm và được chăm sóc y tế, khám chữa bệnh để bảo đảm thực hiện quyền của trẻ em theo quy định của Luật Trẻ em.
Căn cứ theo Điều 10 Nghị định 133/2020/NĐ-CP Hướng dẫn Luật thi hành án hình sự:
Về chế độ ăn:
– Chế độ ăn của trẻ em dưới 36 tháng tuổi là con của phạm nhân ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ phạm nhân được hưởng như đối với trẻ em dưới 04 tuổi tại cơ sở bảo trợ xã hội theo quy định của pháp luật hiện hành; ngày lễ, Tết theo quy định của pháp luật trẻ em được hưởng chế độ ăn bằng 05 lần ngày thường, ngày Quốc tế Thiếu nhi (ngày 01 tháng 6 dương lịch), Tết Trung thu (ngày 15 tháng 8 âm lịch) được hưởng chế độ ăn bằng 02 lần ngày thường.
– Mỗi tháng được cấp sữa và đồ dùng sinh hoạt cần thiết trị giá tương đương 20 kg gạo tẻ/trẻ em. Căn cứ vào lứa tuổi của trẻ và điều kiện thực tế, Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân hoán đổi định lượng chế độ ăn cho phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng của trẻ em ở cùng mẹ trong trại giam hoặc quy đổi thành tiền và gửi lưu ký để mẹ trẻ em sử dụng trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng.
Quy định về các nhu yếu phẩm được cấp cho trẻ dưới 36 tháng tuổi
– Theo Khoản 3, Điều 10 Nghị định 133/2020/NĐ-CP Hướng dẫn Luật thi hành án hình sự , trẻ em dưới 36 tháng tuổi là con của phạm nhân ở cùng mẹ trong trại giam được cấp:
+ 04 khăn mặt/năm;
+ 02 kg xà phòng/năm;
+ 03 bộ quần áo bằng vải thường/năm;
+ 01 màn phù hợp với lứa tuổi/03 năm;
+ 02 đôi dép/năm;
+ 01 chăn phù hợp với lứa tuổi/03 năm (từ tỉnh Thừa Thiên Huế trở ra phía Bắc và 05 tỉnh Tây Nguyên);
+ 01 bộ quần áo ấm/01 năm (cấp từ tỉnh Thừa Thiên Huế trở ra phía Bắc và 05 tỉnh Tây Nguyên, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương còn lại không cấp).
– Trẻ em dưới 36 tháng tuổi là con của phạm nhân ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ phạm nhân được cấp thẻ bảo hiểm y tế, chăm sóc y tế, khám chữa bệnh theo quy định của Luật Trẻ em và Luật Bảo hiểm y tế.
– Trường hợp bị bệnh nặng vượt quá khả năng điều trị của bệnh xá, cơ sở giam giữ phạm nhân làm thủ tục chuyển đến cơ sở y tế của Nhà nước để điều trị, Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân quyết định việc trích xuất và áp giải phạm nhân là mẹ của trẻ đi cùng để chăm sóc. Tiền thuốc chữa bệnh thông thường được cấp không quá 03 kg gạo tẻ/trẻ em/tháng.
– Cơ sở giam giữ phạm nhân có trách nhiệm thanh toán chi phí thực tế trong việc khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong trại giam, kinh phí khám bệnh, chữa bệnh do ngân sách nhà nước cấp. Trường hợp trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ phạm nhân chết kinh phí an táng được thực hiện như đối với phạm nhân chết.
– Chế độ ăn, mặc, cấp phát nhu yếu phẩm, chăm sóc y tế đối với trẻ em trên 36 tháng tuổi là con của phạm nhân ở cùng mẹ tại cơ sở giam giữ phạm nhân trong thời gian chờ làm thủ tục đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội hoặc chờ gửi về thân nhân nuôi dưỡng được thực hiện theo quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 10 Nghị định 133/2020/NĐ-CP Hướng dẫn Luật thi hành án hình sự
Trách nhiệm của Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện:
– Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm làm thủ tục đề nghị đăng ký khai sinh cho con của phạm nhân. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phạm nhân chấp hành án có trách nhiệm đăng ký và cấp giấy khai sinh.
4. Giải quyết trường hợp phạm nhân nữ sinh con và nuôi con đủ 36 tháng tuổi trở lên
– Theo quy định tại Khoản 5 Điều 10 Nghị định 133/2020/NĐ-CP Hướng dẫn Luật thi hành án hình sự: Phạm nhân nữ có con từ 36 tháng tuổi trở lên phải gửi con về cho thân nhân nuôi dưỡng. Trường hợp con của phạm nhân không có thân nhân nhận nuôi dưỡng thì trại giam, trại tạm giam phải đề nghị cơ quan chuyên môn về lao động, thương binh và xã hội thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi phạm nhân chấp hành án chỉ định cơ sở bảo trợ xã hội tiếp nhận, nuôi dưỡng.
– Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị, cơ quan chuyên môn về lao động, thương binh và xã hội thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải chỉ định cơ sở bảo trợ xã hội có trách nhiệm tiếp nhận, nuôi dưỡng. Người chấp hành xong án phạt tù được nhận lại con đang được cơ sở bảo trợ xã hội nuôi dưỡng.
– Trại giam phải tổ chức nhà trẻ ngoài khu giam giữ để chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em là con của phạm nhân dưới 36 tháng tuổi và con của phạm nhân từ 36 tháng tuổi trở lên trong thời gian chờ làm thủ tục đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội.
Như vậy, một đứa trẻ được sinh ra bởi phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn hoặc tù chung thân sẽ được chăm sóc trong trại giam cho đến thời điểm đủ 36 tháng tuổi và sau đó sẽ được bàn giao cho thân nhân nuôi dưỡng. Đây là một quy định đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ nhằm đưa ra một giới hạn độ tuổi là 36 tháng tuổi – một độ tuổi hợp lý để đứa trẻ có thể lớn lên khỏe mạnh bình thường khi rời xa mẹ.
Trên đây là bài viết của Luật Dương Gia về chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Để được tư vấn rõ hơn hoặc có bất cứ vấn đề pháp luật gì cần được tư vấn, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua Hotline: 1900.6568 để được tư vấn – hỗ trợ!