Miễn trách nhiệm hình sự là gì? Miễn trách nhiệm hình sự tên tiếng Anh là gì? Điều kiện miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt?
Nhà nước ta đã có những chính sách nhân đạo, khoan hồng đối với những người phạm tội, nếu xét thấy họ có đủ điều kiện. Trong số những chính sách đó có chính sách miễn trách nhiệm hình sự, hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự. Vậy căn cứ miễn trách nhiệm hình sự là gì? Miễn trách nhiệm hình sự có án tích không/
Căn cứ pháp lý:
1. Miễn trách nhiệm hình sự là gì?
– Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà họ đã phạm. Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những nội dung thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước. Biện pháp này được quy định và áp dụng trong một số trường hợp phạm tội nếu xét thấy không cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự, không cần buộc họ phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt mà vẫn đảm bảo được yêu cầu phòng và chống tội phạm, vẫn đảm bảo được yêu cầu giáo dục người phạm tội để họ trở thành người có ích cho xã hội.
– Trong BLHS năm 2015, miền trách nhiệm hình sự được quy định tại một số điều luật ở Phần thứ nhất – Những quy định chung và Phần thứ hai – Các tội phạm. Đó là Điều 16; Điều 29; khoản 2 Điều 91; khoản 4 Điều 110; đoạn 2 khoản 7 Điều 364 và khoản 2 Điều 390. Đây là những trường hợp vì những lí do khác nhau mà việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp này là không cân thiết. Người được miễn trách nhiệm hình sự không bị coi là có án tích.
– Cần phải phân biệt trường hợp miễn trách nhiệm hình sự với trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm nhưng không cấu thành tội phạm. Bởi lẽ, miễn trách nhiệm hình sự không đồng nghĩa với không có trách nhiệm hình sự, cho nên trong quá trình điều tra, truy tô hoặc xét xử nếu không đủ căn cứ để buộc tội thì phải tuyên bố họ không phạm tội chử không được tuyên bố miễn trách nhiệm hình sự cho họ.
– Miễn hình phạt là không buộc người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt về tội mà họ đã thực hiện.
– Miễn trách nhiệm hình sự cũng như miễn hình phạt đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội chỉ đặt ra cho những trường hợp nếu như việc truy cứu trách nhiệm hình sự hay áp dụng hình phạt là không cần thiết, không đạt được mục đích của hình phạt hoặc trái với nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam.
– Về mặt lí luận thì hình phạt là hậu quả pháp lí của tội phạm, luôn gắn liền với tội phạm. Do đó, với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm thì việc áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp phạm tội, nếu truy cứu trách nhiệm hình sự hay áp dụng hình phạt đối với họ sẽ không đạt mục đích của hình phạt thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự hay áp dụng hình phạt đối với những trường hợp này là không cần thiết.
2. Miễn trách nhiệm hình sự tên tiếng Anh là gì?
Miễn trách nhiệm hình sự tên tiếng Anh là: “Offences against regulations on land management”.
3. Điều kiện miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
Theo Điều 29
” 1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.”
Theo đó, việc miễn trách nhiệm hình sự được thực hiện khi có một trong các điều kiện sau đây:
– Khi tiến hành điều tra, truy tô hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn hiểm cho xã hội nữa;
– Khi có quyết định đại xá.
Theo khoản 2 Điều 29 BLHS thì việc miễn trách nhiệm hình sự có thể được thực hiện khi có một trong các điều kiện sau đây:
– Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
– Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
– Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
– Theo khoản 3 Điều 29 BLHS thì người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và để nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Ngoài những điều kiện có tính nguyên tắc chung cho việc miễn trách nhiệm hình sự, luật hình sự Việt Nam còn quy định một số trường hợp đặc biệt được miễn trách nhiệm hình sự. Đó là các trường hợp:
– Người phạm tội đã chấm dứt việc phạm tội một cách tự nguyện và dứt khoát (ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành) cho nên đã làm cho tính nguy cho xã hội của hành vi không còn- Điều 16 Bộ luật hình sự 2015 như sau: ” Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.”
– Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp được liệt kê tại khoản 2 Điều 91 Bộ luật hình sự 2015:
” 2. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.”
mà có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả (không thuộc trường hợp được quy định tại Điều 29 BLHS) có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 chương XII (khoản 2 Điều 91 BLHS).
– Người phạm tội đã nhận làm gián điệp nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền – khoản 4 Điều 110 BLHS: ” Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội này.”
– Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác (đoạn 2 khoản 7 Điều 364 BLHS: ” Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.” ). Người không tố giác tội phạm nhưng đã có hành động can – ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm (khoản 2 Điều 390 BLHS: “Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.” )
– Theo Điều 59 BLHS thì người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự. Bên cạnh đó, Điều 88 BLHS cũng quy định miễn hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội.”
Cụ thể: Pháp nhân thương mại phạm tội có thể được miễn hình phạt khi đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
– Những trường hợp được miễn hình phạt thường là những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng nhưng thuộc trường hợp ít nghiêm trọng không có hoặc có tình tiết tăng nặng nhưng không đáng kể mà lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể; người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm; người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện điều tra tội phạm; người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đầu, học tập hoặc công tác..