Ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân là một nhân vật tiêu biểu cho tầng lớp nông dân yêu nước trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Bài viết dưới đây là mẫu cảm nhận của em về diễn biến tâm trạng của ông Hai, cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý cảm nhận của em về diễn biến tâm trạng của ông Hai:
* Mở bài:
Giới thiệu truyện ngắn Làng, về nhân vật ông Hai
* Thân bài:
Cảm xúc, tính cách và phẩm chất của Ông Hai được thể hiện chân thực qua từng hoàn cảnh.
⇒ Khoe khoang là cách thể hiện tình yêu, nỗi nhớ và niềm tự hào nhất đối với quê hương của ông Hai.
– Tình yêu Làng gắn liền với yêu nước, yêu cách mạng
Khi nghe tin làng theo giặc.
– Diễn biến tâm lí giằng xé của ông Hai
⇒ Qua sự suy sụp tâm lý của ông Hai chúng ta thấy được tình yêu sâu sắc của ông đối với quê hương làng chợ Dầu, đồng thời thấy được lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Cách mạng và Bác Hồ.
Niềm vui của ông Hai khi tin đi theo giặc của cả làng được chấn chỉnh.
⇒ Tinh thần yêu nước của ông Hai, tình cảm chân thành của một người nông dân giản dị, một người yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng đến mức vui mừng báo tin nhà mình bị giặc đốt.
* Kết bài:
Cảm nhận chung về nhân vật ông Hai và truyện ngắn Làng
2. Cảm nhận của em về diễn biến tâm trạng của ông Hai hay nhất:
Viết về lòng yêu nước, nhà văn Kim Lân trong truyện ngắn “Làng” đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai. Một người dân trung thành với đất nước, gắn bó với nơi mình “sinh ra và lớn lên”.
Ông Hai là người yêu làng, luôn tự hào về làng mình. Trong một lần tình cờ, ông Hai nghe tin làng chợ Dầu thân yêu đã trở thành Việt gian theo Pháp, phản bội kháng chiến, phản bội Bác Hồ. Khi nghe tin làng chợ Dầu đã theo giặc: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, mặt tê rân rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như không thể được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ…giọng lạc hẳn đi”.
Về nhà, thấy các con chơi đùa với nhau, ông Hai ngã vật xuống giường “giàn nước mắt”. Đó là những giọt nước mắt đau đớn, buồn tủi. Ông đau đớn, buồn bã vì nghĩ đến sự khinh miệt, hắt hủi của mọi người. Rồi đây người ta còn đuổi cả con cháu làng Việt gian nữa. Chúng chỉ là những đứa trẻ nhỏ bé, đáng thương, nào có nỗi gì.
Tâm trạng của ông Hai được bộc lộ rõ nét trong tình huống thử thách căng thẳng và quyết liệt, làng chợ Dầu theo giặc thì sẽ không ai chứa làng chợ Dầu. Trong tình huống này, tâm trạng của ông Hai trở nên chán nản, tuyệt vọng và bế tắc. Ông Hai đã trải qua một cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội, đó là có nên về hay không về làng chợ Dầu.
Khi chính chủ tịch xã đến chỗ ông Hai báo lại sự việc: “Hóa ra toàn sai sự mục đích cả”. Khi ấy, niềm vui trong lòng ông Hai thực sự vô bờ bến. Ông mua quà cho bọn trẻ. Ông đi từ đầu làng này đến đầu làng kia, chạy qua chạy lại, từ nhà này sang nhà khác, vui vẻ tuyên bố: “Tây nó đốt nhà tôi rồi. Đốt nhẵn”. Ông nói về sự mất mát nhưng tràn đầy niềm vui sướng vì đó là sự cải chính hùng hồn nhất để bảo vệ danh dự của ông và danh dự của làng Chợ Dầu.
Như vậy, khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, tâm trạng ông Hai vô cùng phức tạp, ông đau khổ, tuyệt vọng rồi đấu tranh dữ dội nghĩ đến việc trở về làng hay không trở về làng. Nhà văn Kim Lân đã đưa ông Hai vào một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, tuy nhiên, sau tình huống đó, tính cách và phẩm chất của ông Hai cũng được bộc lộ rõ ràng và sâu sắc. Ông đặt lòng yêu nước lên trên hết, mặc dù yêu quê hương, ông vẫn trung thành với đất nước và Bác Hồ.
3. Cảm nhận của em về diễn biến tâm trạng của ông Hai nâng cao:
Ông Hai cũng như bao người nông dân ở nông thôn luôn gắn bó với làng mình. Ông yêu quý và tự hào về làng Chợ Dầu và thường kể về làng một cách sôi nổi, hào hứng. Vừa đi vừa nhớ làng, theo dõi tin tức chiến tranh, về thăm Chợ Dầu.
Tình yêu làng quê của ông càng được bộc lộ sâu sắc và cảm động hơn trong những hoàn cảnh đầy thử thách. Kim Lân đưa nhân vật vào một vấn đề gay gắt để bộc lộ chiều sâu cảm xúc của nhân vật. Đó là tin làng chợ Dầu theo giặc. Bước ra khỏi phòng thông tin, ông vừa vui mừng, phấn khởi trước tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư, nghe nhắc đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, mong được nghe tin vui, nào ngờ biết tin dữ: “Cả làng Việt gian theo Tây”. Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông Hai bàng hoàng, đau đớn tột cùng: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ.
Về đến nhà, ông chán nản đến mức “ngã xuống giường” nhìn các con mà rưng rưng nước mắt: “chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Ông căm ghét những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt tay và rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ông đau đớn nghĩ đến cảnh “người dân phẫn nộ, trả thù bọn Việt gian bán nước”. Nhiều ngày liền, ông chẳng dám đi đâu, “chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”, lúc nào cũng luôn tưởng tượng mọi người đang chú ý và bàn tán về chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh, day dứt, nặng nề biến thành nỗi sợ hãi thường trực trong ông. Ông đau đớn, cảm thấy xấu hổ như thể mình là người có lỗi…
Hoàn cảnh của ông càng trở nên bế tắc và tuyệt vọng hơn khi bà chủ nhà cố gắng thuyết phục gia đình ông rằng họ không tiếp đón dân làng Việt gian. Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy, trong thoáng chốc ông đã có ý định trở về làng nhưng rồi lại gạt bỏ ngay vì “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”, là “cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây”.
Trong tâm trạng bị đè nén và bế tắc ấy, ông chỉ có thể tìm thấy niềm an ủi khi tâm sự với cậu con trai nhỏ. Nói chuyện với con thực chất là chia sẻ cảm xúc của lòng mình. Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời:”Thế nhà con ở đâu?”, “Thế con ủng hộ ai?”. Lời của đứa trẻ vang vọng trong tâm trí ông thiêng liêng mà giản dị: “Nhà ta ở làng Chợ Dầu”,”Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”.
Những gì ông đã biết thì ông vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Suy nghĩ của ông giống như những lời thề sắt đá. Ông xúc động, nước mắt “chảy ròng ròng trên hai má”. Tấm lòng của ông dành cho làng quê thật sâu sắc và quý giá. Dù cả làng Việt gian nhưng ông vẫn trung thành với cuộc kháng chiến và với Bác Hồ.
May mắn thay, tin đồn về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông vui mừng như được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi cùng người báo tin, khi trở về, “khuôn mặt buồn bã mỗi ngày của ông càng tươi sáng hơn”. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất hạnh phúc. Bởi, trong cảnh hoang tàn của chính quê hương mình là sự hồi sinh danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là niềm vui lạ lùng, thể hiện một cách đau đớn và cảm động tình yêu làng quê, lòng yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm.