Cấm cố laptop mượn của bạn bị xử tội gì? Điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sư theo quy định pháp luật
Tóm tắt câu hỏi:
Thưa luật sư. Tôi là Dương được Thống nhờ cầm giùm chiếc laptop trong thời gian Thống đi học thêm. Trong thời gian đó có tôi có mượn của Phường (cùng dãy trọ) 4tr chưa có khả năng chi trả cho Phường thì Phường đòi và có ý định lấy laptop để trừ nợ nhưng tôi có nhờ Dũng (bạn cùng phòng) trả giúp sau đó Tiến (cùng phòng với Phường) đã mượn laptop với mục đích là xem phim tại phòng và tôi cho mượn. Sau khi tôi đi chơi về đòi laptop thì Tiến trả lời là cắm rồi và hứa sẽ trả. 2 năm trôi qua tôi và Thống đến nhà Tiến và đòi tiền thì Tiến nói cắm cùng Thanh. 2 người đã nhận nhưng không chịu trả tiền và nói cắm được nhiêu thì giả như vậy. Sau thời gian nói chuyện thì Tiến và Thanh kiên quyết chỉ giả 4tr và nói rằng trước đây Phường cũng giả như thế. Còn nếu không đồng ý thì không trả nữa. Vậy xin hỏi luật sư tôi có bị cho là tòng phạm không và tôi và Thống có quyền kiện hay không. Chiếc laptop đó giá 8tr290 thì Tiến và Thanh sẽ chịu mức phạt như thế nào?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1.Căn cứ pháp lý:
2. Giải quyết vấn đề:
Bạn của bạn có ý định mượn tài sản của bạn đem cầm đồ sau đó không chuộc lại mặc dù có điều kiện chuộc thì có thể sẽ bị truy cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174
“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;”
Về mặt khách quan:
Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản. Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều hình thức khác như: giả vờ vay , mượn, thuê để nhằm chiếm đoạt tài sản.
Hậu quả: Người phạm tội đã chiếm được tài sản
Về mặt chủ quan:
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.
Mục đích: Chiếm đoạt tài sản; thực hiện được thủ đoạn gian dối để người khác tin mình.
Về khách thể:
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu.
Đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó là tài sản.
Về mặt chủ thể:
Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường.. Những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định đều có khả năng trở thành chủ thể của tội phạm.
Nếu người mượn đồ đem cầm đồ nhưng không có khả năng để chuộc lại tài sản đã cầm có thể bị truy cứu về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự 2015:
“Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Như vậy, chỉ những người có đầy đủ các dấu hiệu sau đây mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:
+ Về mặt chủ thể: Chủ thể của tội phạm này là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
+ Về mặt khách quan: Người phạm tội có hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và kết quả là người phạm tội có quyền về tài sản một cách hợp pháp.Như vậy trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt người phạm tội đã có tài sản hợp pháp bằng một hợp đồng khác với các tội phạm khác, người phạm tội chỉ có thể có tài sản sau khi thực hiện hành vi chiếm đoạt. Sau khi có tài sản người phạm tội đã không thực hiên nghĩa vụ tài sản theo hợp đồng mà có ý chiếm đoạt tài sản đó bằng một trong các thủ đoạn: Gian dối; bỏ trốn; sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
+ Về mặt chủ quan: Người phạm tội có lỗi cố ý dịch chuyển một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc cho người khác mà mình quan tâm bằng thủ đoạn lạm dụng tín nhiệm..
Trước tiên trong trường hợp của bạn người này có hành vi lợi dụng sự tin tưởng của bạn, tức bạn hai người là bạn bè, do tin nên mới giao chiếc latop cho người này. Như vậy, người bạn của bạn đã lợi dụng niềm tin đó mượn mục đích chính để chiếm đoạt và bán tài sản này của bạn đi. Ta thấy chiếc laptop của bạn có giá trị gần 9 triệu đồng, hành vi mượn đồ người khác nhưng lại đem cầm đồ, sau đó không lấy lại đồ về có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mức hình phạt cụ thể sẽ do thẩm phán quyết định dựa trên tính chất nguy hiểm của hành vi của người bạn của bạn và hậu quả xảy ra trên thực tế.