Hợp đồng dân sự? Hủy bỏ hợp đồng dân sự? Hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ? Hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp tài sản bị mất, bị hư hỏng? Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng?
Trong quan hệ dân sự được thiết lập hằng ngày, các bên tham gia quan hệ với nhau và thường sẽ giao kết với nhau hợp đồng dân sự. Các bên tham gia hợp đồng có nghĩa vụ thực hiện đúng hợp đồng đã thỏa thuận trên cơ sở tôn trọng pháp luật. Tuy nhiên trên thực tế, trong quá trình thực hiện hợp đồng thì vẫn có các trường hợp phải hủy bỏ hợp đồng dân sự. Vậy các trường hợp và hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng dân sự được pháp luật quy định như thế nào? Bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ đi vào tìm hiểu những quy định liên quan để giúp người đọc hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Luật sư
Cơ sở pháp lý:
1. Hợp đồng dân sự? Hủy bỏ hợp đồng dân sự?
Hủy bỏ hợp đồng được quy định tại Điều 423
+ Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;
+ Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;
+ Trường hợp khác do luật quy định.
Theo đó khi tham gia hợp đồng dân sự, nếu một bên vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận (là điều kiện hủy bỏ hợp đồng) hoặc vi phạm các nghĩa vụ khác thì bên còn lại có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng dân sự. Ở đây có thể hiểu vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng mà hai bên đã thỏa thuận ngay từ đầu.
Theo quy định tại điều luật này thì bên hủy bỏ hợp đồng khi muốn hủy bỏ hợp đồng vì các căn cứ trên sẽ phải
2. Hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ?
Hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ được quy định tại Điều 424 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
– Trường hợp hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ khi: bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ mà bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn hợp lý (đã thỏa thuận trong hợp đồng đã giao kết) nhưng bên có nghĩa vụ không thực hiện thì bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng.
– Trường hợp hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ khi: do tính chất của hợp đồng hoặc do ý chí của các bên giao kết hợp đồng mà hợp đồng sẽ không đạt được mục đích nếu không được thực hiện trong thời hạn nhất định. Khi hết thời hạn đã thỏa thuận mà bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng.
3. Hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp tài sản bị mất, bị hư hỏng?
Hủy bỏ hợp đồng do không có khả năng thực hiện được quy định tại Điều 425 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
Trường hợp bên có nghĩa vụ theo hợp đồng đã giao kết không thể thực hiện được một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình như đã thỏa thuận làm cho mục đích của bên có quyền không thể đạt được thì bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại vì lý do bên kia không có khả năng thực hiện hợp đồng.
Hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp tài sản bị mất, bị hư hỏng được quy định tại Điều 426 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
Trường hợp một bên làm mất, làm hư hỏng tài sản mà tài sản bị mất, hư hỏng này là đối tượng của hợp đồng mà không thể hoàn trả, đền bù bằng tài sản khác hoặc không thể sửa chữa, thay thế bằng tài sản cùng loại thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng. Theo đó về nghĩa vụ bồi thường thì bên vi phạm phải bồi thường bằng tiền ngang với giá trị của tài sản bị mất, bị hư hỏng
4. Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng?
Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng được quy định tại Điều 427 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
– Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp:
– Theo quy định tại khoản 1, khi hợp đồng bị hủy bỏ, hợp đồng có thể không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần. Hợp đồng được coi là không có hiệu lực một phần nếu trong hợp đồng có thỏa thuận về phạt vi phạm, thỏa thuận về bồi thường thiệt hại cũng như thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. Quy định này cũng cho thấy, chỉ cần một sự vi phạm xảy ra có thể dẫn đến nhiều hậu quả như: hợp đồng bị hủy bỏ, bên vi phạm bị phạt vi phạm, bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại. Chúng tôi cho rằng, việc quy định hậu quả của hủy bỏ hợp đồng như vậy là không phù hợp, vì nó khiến cho bên vi phạm (dù là nhỏ hay lớn) phải gánh chịu quá nhiều hậu quả nặng nề. Điều này không phù hợp với nguyên tắc bình đẳng được quy định tại Điều 3 Bộ luật này, đồng thời cũng không phù hợp với lẽ công bằng mà các quan hệ dân sự đều hướng tới. Do đó, theo quan điểm của chúng tôi, cần phải quy định hậu quả của việc hủy hợp đồng theo hướng hợp đồng sẽ chấm dứt hiệu lực một cách hoàn toàn. Khi đỏ, bên bị vi phạm sẽ lựa chọn giữa việc hủy bỏ hợp đồng hoặc tiếp tục thực hiện hợp đồng và yêu cầu bên vi phạm chịu trách nhiệm theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp” được hiểu là trong thỏa thuận phải chứa dụng cả ba nội dung: phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. Điều này là không thực tế bởi các bên chủ thể trong hợp đồng không phải lúc nào cũng thỏa thuận đủ những nội dung này.
– Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản:
Hậu quả pháp lý của hợp đồng bị hủy bỏ giống với hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, cụ thể: các bên chưa thực hiện hợp đồng thì các bên không được thực hiện hợp đồng. Nếu các bên đã thực hiện hợp đồng thì phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ đi các chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản. Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền tương đương với giá trị quy đổi từ vật.
Quy định về thời điểm thực hiện nghĩa vụ hoàn trả theo quy định tại đoạn 3 khoản 2 Điều này, theo quan điểm của chúng tôi là không cần thiết. Bởi vì hai lý do sau: (1) Điều 278 Bộ luật này đã đưa ra quy định chung về thời hạn thực hiện nghĩa vụ, và quy định này được áp dụng cho mọi trường hợp; (ii) Cuối đoạn này có đoạn “… trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Vậy, quy định khác tại Điều 278 sẽ được ưu tiên áp dụng trước hay quy định tại đoạn 3 khoản 2 Điều này sẽ được áp dụng trước. Rõ ràng, theo cách dẫn chiếu thì Điều 278 sẽ được áp dụng trước, nên càng khẳng định đoạn 3 khoản 2 Điều này là không cần thiết và nên được loại bỏ.
Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả.
Trường hợp các bên cùng có nghĩa vụ hoàn trả thì việc hoàn trả phải được thực hiện cùng một thời điểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
– Bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia được bồi thường: điều này thực hiện đúng theo nguyên tắc bồi thường của luật dân sự, bên nào có lỗi thì bên đấy phải thực hiện việc bồi thường.
– Việc giải quyết hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật dân sự 2015 và luật khác có liên quan quy định để tiến hành giải quyết hậu quả của việc hủy hợp đồng, đảm bảo quyền và lợi ích cho các bên.
– Trường hợp việc hủy bỏ hợp đồng không có căn cứ quy định nêu trên thì bên hủy bỏ hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan. Theo đó thì sự vi phạm nghĩa vụ nếu không thuộc các trường hợp loại trừ trách nhiệm sẽ khiến cho bên vi phạm phải chịu trách nhiệm dân sự.
Như vậy, khi các bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc không có khả năng thực hiện hợp đồng thì bên còn lại có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường theo quy định.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Luật Dương Gia về các nội dung hợp đồng dân sự, hủy bỏ hợp đồng dân sự, hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ, hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp tài sản bị mất, bị hư hỏng, hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng cũng như các nội dung liên quan đến vấn đề này.