Phân tích các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế? Các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế bao gồm các nguyên tắc quốc tế truyền thống và các nguyên tắc quốc tế hiện đại theo Luật quốc tế.
Nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là hệ tống các thỏa thuận chính trị mang tính chủ đạo, có giá trị bắt buộc với mọi chủ thể, mọi quan hệ do pháp luật quốc tế điều chỉnh. Nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là những tư tưởng chính trị, mang tính chất chỉ đạo bao trùm, có giá trị bắt buộc chung, điều chỉnh những quan hệ giữa các chủ thể của Luật Quốc tế, hình thành hệ thống cấu trúc bên trong của Luật quốc tế. Nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế phân làm hai nhóm: nhóm các nguyên tắc truyền thống và nhóm các nguyên tắc hiện đại.
Mục lục bài viết
- 1 1. Nhóm các nguyên tắc truyền thống:
- 2 2. Nhóm các nguyên tắc hiện đại:
- 2.1 2.1. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau:
- 2.2 2.2. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc:
- 2.3 2.3. Nguyên tắc không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực:
- 2.4 2.4. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình:
- 2.5 2.5. Nguyên tắc tuân thủ những cam kết quốc tế:
1. Nhóm các nguyên tắc truyền thống:
1.1. Nguyên tắc tôn trọng và bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia:
a, Khái niệm bình đẳng chủ quyền
Chủ quyền là thuộc tính chính trị – pháp lý vốn có của quốc gia, thể hiện quyền lực tối cao của quốc gia trong lãnh thổ của mình và quyền lực độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ, mỗi quốc gia có quyền tối thượng về lập pháp, hành pháp và tư pháp mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài, đồng thời quốc gia được tư do lựa chọn cho mình phương thức thích hợp nhất để thực thi quyền lực trong phạm vi lãnh thổ.
Bình đẳng được đề cập đến trong nguyên tắc này không được hiểu theo nghĩa “ ngang bằng nhau” về tất cả các quyền và nghĩa vụ, mà là bình đẳng trong quyền tự quyết mọi vấn đề liên quan đến đối nội và đối ngoại của mỗi quốc gia.
b, Nội dung pháp lý:
Bình đẳng về chủ quyền của quốc gia bao gồm:
- Các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý;
- Mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ;
- Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng đầy đủ quyền năng chủ thể của các quốc gia khác;
- Sự toàn vẹn lãnh thổ và tính độc lập về chính trị là bất di bất dịch;
- Mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị , xã hội, kinh tế và văn hóa của mình;
- Mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ và tận tâm các nghĩa vụ quốc tế của mình và tồn tại hòa bình cùng các quốc gia khác.
Theo nguyên tắc này mỗi quốc gia đều có các quyền bình đẳng sau:
- Được tôn trọng về quốc thể, sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa;
- Được tham gia giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của mình;
- Được tham gia các tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế với các lá phiếu có giá trị nghang nhau;
- Được kí kết và gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan;
- Được tham gia xây dựng pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế bình đẳng với các quốc gia khác;
- Được hưởng đầy đủ các quyền ưu đãi, miễn trừ và gánh vác các nghĩa vụ như các quốc gia khác.
1.2. Nguyên tắc tận tâm thiện chí thực hiện cam kết quốc tế:
Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế được hiểu là khi các bên chủ thể trong quan hệ luật quốc tế tham gia và kí kết các Điều ước quốc tế thì phải trên cơ sở của sự thỏa thuận và tự nguyện, bình đẳng. Khi tham gia vào Điều ước quốc tế các quốc gia phải có nghĩa vụ tuân thủ nội dung mà mình đã cam kết.
– Thứ nhất, mỗi quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện và có thiện chí, trung thực và đầy đủ các nghĩa vụ quốc tế của mình. Đầu tiên, đó là các nghĩa vụ trong hiến chương Liên Hợp Quốc
– Thứ hai, mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa vụ điều ước quốc tế, tuân thủ một cách triệt để, không do dự. Điều này có nghĩa là Điều ước quốc tế phải được thực hiện triệt để, không phụ thuộc vào các sự kiện trong và ngoài nước. Các sự kiện khách quan như: thay đổi chính phủ, sự thay đổi hình thức quản lí hay chế độ xã hội, biểu tình, thiên tai, sự thay đổi lãnh thổ,…
– Thứ ba, các quốc gia thành trong viên Điều ước quốc tế không được viện dẫn các quy định của pháp luật nước để coi đó là nguyên nhân và từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình. Đây là một yêu cầu quan trọng và được coi là một bộ phân không thể thiếu của nguyên tắc Pacta sunt servanda và được quy định trong Điều 27 Công ước viên năm 1969.
– Thứ tư, các quốc gia không có quyền ký kết điều ước quốc tế mâu thuẫn với nghĩa vụ của mình được quy định trong điều ước quốc tế hiện hành mà quốc gia ký kết hoặc tham gia ký kết trước đó với các quốc gia khác. Do đó, khi ký kết các điều ước quốc tế cần đòi hỏi quốc gia ký kết cần xem xét kỹ lưỡng các điều khoản của điều ước xem liệu điều ước đó có mâu thuẫn với các điều ước quốc tế hiện hành mà mình đã tham gia hoặc ký kết trước đó hay không.
– Thứ năm, Không cho phép các quốc gia đơn phương ngừng thực hiện và xem xét lại điều ước quốc tế. Hành vi này chỉ được thực hiện với phương thức đình chỉ và xem xét hợp pháp theo sự thỏa thuận của các bên là thành viên điều ước
– Thứ sáu, Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hay quan hệ lãnh sự giữa các nước thành viên của điều ước quốc tế không làm ảnh hưởng đến các quan hệ pháp lý phát sinh giữa các quốc gia này, trừ trường hợp các quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự này là cần thiết cho việc thực hiện điều ước (Điều 63 Công ước Viên 1969).
2. Nhóm các nguyên tắc hiện đại:
2.1. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau:
a, Công việc nội bộ của mỗi quốc gia: là công việc nằm trong thẩm quyền giải quyết của mỗi quốc gia độc lập xuất phát từ chủ quyền của mình, đó là quyền tối thượng của mỗi quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình
Nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế hiện đại, theo đó không một quốc gia, nhóm quốc gia hay tổ chức quốc tế nào có quyền can thiệp dưới bất cứ hình thức gì vào các công việc đối nội và đối ngoại thuộc thẩm quyền riêng của quốc gia khác hoặc bắt buộc quốc gia khác phải đưa những công việc thuộc loại này ra giải quyết theo thủ tục quốc tế. Luật pháp quốc tế hiện đại quy định những hành vi sau đây là can thiệp vào nội bộ của quốc gia:
Thứ nhất, sử dụng sức mạnh hoặc đe doạ bằng sức mạnh và áp dụng các hình thức can thiệp khác để chống lại quyền chủ thể luật pháp quốc tế của quốc gia hay chống lại nền tảng chính trị, kinh tế và văn hoá của quốc gia;
Thứ hai, sử dụng các biện pháp kinh tế, chính trị và các biện pháp khác để khuất phục quốc gia khác nhằm hạn chế các quyền bắt nguồn từ chủ quyền quốc gia và nhằm buộc quốc gia khác dành lợi thế cho mình;
Thứ ba, tổ chức, giúp đỡ, chứa chấp, khuyến khích, tài trợ hoặc cho phép những hoạt động vũ trang, lật đổ hoặc khủng bố nhằm làm thay đổi thể chế của quốc gia khác thông qua sức mạnh cũng như nhằm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ, nhất là nội chiến ở quốc gia khác;
Thứ tư, sử dụng sức mạnh để buộc nhân dân nước khác từ bỏ hình thức tồn tại dân tộc của họ;
Thứ năm, can thiệp dưới bất cứ hình thức gì nhằm tước bỏ quyền không thể tước đoạt được của quốc gia khác lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá của họ.
2.2. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc:
Quyền dân tộc tự quyết được hiểu là việc một dân tộc hoàn toàn tự do trong việc tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như lựa chọn thể chế chính trị, đường lối phát triển đất nước. Khoản 2 điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc ghi nhận “phát triển quán hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền và dân tộc tự quyết”.
Nội dung chính của Nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc:
Thứ nhất, được thành lập quốc gia độc lập hay cùng với các dân tộc khác thành lập quốc gia lien bang ( hoặc đơn nhất) trên cơ sở tự nguyện;
Thứ hai, tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, xã hội;
Thứ ba, tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên ngoài
Thứ tư, quyền của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc tiến hành đấu tranh, kể cả đấu tranh vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ và ủng hộ từ bên ngoài, kể cả giúp đỡ về quân sự.
Thứ năm, tự chọn lựa con đường phát triển phù hợp với truyền thống lịch sử văn hóa, tín ngưỡng, điều kiện địa lý.
Luật sư
2.3. Nguyên tắc không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực:
Nội dung của nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế được ghi nhận trong Tuyên bố 1970 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc : “ Mỗi quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ việc đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực để vi phạm biên giới quốc gia của các nước khác hoặc dùng nó làm phương tiện để giải quyết các tranh chấp quốc tế, kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề có liên quan đến biên giới các nước”.
Nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực được khái quát hóa trong tuyên bố 1970 ở những nội dung sau:
- Cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia hoặc sử dụng lực lượng vũ trang vượt qua biên giới tiến vào lãnh thổ quốc gia khác;
- Cấm cho quân vượt qua biên giới quốc tế, trong đó có tuyến hòa giải;
- Cấm các hành vi đe dọa trấn áp bằng vũ lực;
- Không cho phép quốc gia khác sử dụng lãnh thổ của mình để tiến hành xâm lược chống nước thứ ba;
- Không tổ chức, khuyến khích , xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi khủng bố các quốc gia khác;
- Không tổ chức, giúp đỡ các băng đảng vũ trang, nhóm vũ trang, lính đánh thuê đột nhập phá hoại lãnh thổ quốc gia khác;
- Cấm tuyên truyền chiến tranh xâm lược.
2.4. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình:
Nguyên tắc “giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế” được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến chương Liên hợp quốc và được khẳng định rõ ràng trong Tuyên bố năm 1970, trong đó chỉ rõ “mỗi quốc gia giải quyết tranh chấp quốc tế của mình với các quốc gia khác bằng phương pháp hòa bình để không dẫn đến đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế và công bằng”.
Tuyên bố năm 1970 quy định các nghĩa vụcủa các quốc gia trong nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, cụ thể như sau:
Thứ nhất,nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình theo cách thức không gây nguy hiểm cho hòa bình, an ninh và công lý quốc tế;
Thứ hai, nghĩa vụ tìm kiếm giải pháp cho các tranh chấp một cách nhanh chóng và công bằng thông qua đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, biện pháp tư pháp, sử dụng các tổ chức hay dàn xếp quốc tế hoặc các biện pháp hòa bình khác theo sự lựa chọn của các bên, phù hợp với hoàn cảnh và bản chất của tranh chấp;
Thứ ba, nghĩa vụ tiếp tục tìm kiếm giải pháp giải quyết tranh chấp bằng những biện pháp hòa bình mà các bên chấp nhận trong trường hợp chưa thể giải quyết tranh chấp bằng bất kỳ biện pháp hòa bình nêu trên;
Thứ tư, nghĩa vụ hạn chế có hành động có thể làm xấu đi tình hình, gây nguy hiểm cho việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế và phải hành động theo cách thức phù hợp với mục đích và nguyên tắc của Liên hợp quốc.
2.5. Nguyên tắc tuân thủ những cam kết quốc tế:
– Cam kết quốc tế được hiểu là tất cả các thỏa thuận về mặt ý chí của các quốc gia được ghi nhận trong điều ước và tập quán quốc tế
– Các chủ thể của Luật Quốc Tế phải có nghĩa vụ thực hiện các cam kết quốc tế phù hợp với Luật Quốc Tế một cách tận tâm, có thiện chí và đầy đủ.
– Không được vi phạm các cam kết quốc tế với lý do vì nó trái với luật pháp của quốc gia mình.