Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định? Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận?
Mục lục bài viết
1. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là gì?
Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được hiểu là những nguyên lý, tư tưởng, quan điểm chỉ đạo về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được chuẩn hóa thành các quy phạm pháp luật cụ thể nhằm đảm bảo tính công bằng, khách quan, chính xác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng.
So với
2. Các nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn:
2.1. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định:
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ghi nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định tại các Điều từ 13 đến 46 và từ 19 đến 64. Theo đó, các nguyên tắc để giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được ghi nhận gồm:
Thứ nhất, nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng
Tôn trọng sự thỏa thuận là nguyên tắc được đề ra trong giải quyết các vụ án về dân sự nói chung cũng như về hôn nhân và gia đình nói riêng. Mỗi cá nhân đều có quyền tự do định đoạt, tự do ý chí và điều này được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn phải tôn trọng quyền tự do định đoạt của các bên vợ chồng, tôn trọng sự thoả thuận của họ. Tài sản trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng và họ có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
Theo Điều 213 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. 4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án”. Ngoài ra, khoản 1 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản đó do các bên thỏa thuận. Cụ thể: “1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết”. (Khoản 1 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014)”.
Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cụ thể hóa và ghi nhận nguyên tắc thỏa thuận của các bên theo quy định của pháp luật. Vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ khối tài sản chung trong quá trình giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Mặt khác, theo quy định tại Điều 5
Ngoài ra, nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận khi chia tài sản chung của vợ chồng theo luật định được cụ thể hóa bằng hướng dẫn tại Điều 7,
Việc áp dụng nguyên tắc này giúp các bên đương sự tránh sự căng thẳng, mâu thuẫn đã tồn tại trong quan hệ hôn nhân, tiết kiệm thời gian, công sức của tất cả các bên, tạo điều kiện cho quá trình thi hành án được thuận lợi. Nguyên tắc này không những đảm bảo quyền lợi của các bên trong việc tự do định đoạt mà còn giúp giải quyết các vụ án tranh chấp chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn được thuận lợi, nhanh chóng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên không bị xâm hại hay bị ảnh hưởng do vụ án kéo dài.
Thứ hai, nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng trong chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Bộ luật dân sự ghi nhận nguyên tắc bình đẳng của công dân. Trên cơ sở đó, vợ, chồng có quyền bình đẳng trước pháp luật trong việc hưởng các quyền dân sự nói chung và quyền sở hữu tài sản nói riêng. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trường hợp vợ chồng không có thỏa thuận phân chia tài sản, khi ly hôn, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi. Quy định này thể hiện rõ nguyên tắc về quyền bình đẳng giữa các bên khi chia tài sản chung của vợ chồng. Tài sản chung của vợ chồng có hình thức sở hữu chung hợp nhất, khối tài sản đó được sử dụng đảm bảo đời sống chung của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Hình thức sở hữu chung này không xác định rõ phần quyền của các đồng chủ sở hữu trong khối tài sản chung. Do đó, để đảm bảo sự bình đẳng của các bên, tài sản chung của vợ chồng sẽ chia đôi khi ly hôn. Tuy nhiên, nguyên tắc này được áp dụng linh hoạt, để đảm bảo việc phân chia tài sản chung của vợ chồng được thực hiện công bằng, phù hợp với thực tế, căn cứ vào hoàn cảnh của mỗi bên; tình trạng tài sản để đảm bảo sản xuất, kinh doanh cho các bên tiếp tục lao động; công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản chung; lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. Các yếu tố này được ghi nhận tại khoản 2 Điều 59 LHôn nhân và gia đình năm 2014 được hướng dẫn tại Khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP. Theo đó, trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng được chia đội nhưng có tính đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia:
Một là, hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng sau khi ly hôn. Nó được hiểu là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.
Hai là, công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Đó là những đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con cái, gia đình mà không đi làm vẫn được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.
Ba là, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập. Việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Ngược lại, việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự. Chẳng hạn, nếu vợ chồng có tài sản chung là một chiếc ô tô người chồng đang chạy xe taxi trị giá 400 triệu đồng và một cửa hàng tạp hóa người vợ đang kinh doanh trị giá 200 triệu đồng. Khi giải quyết ly hôn và chia tài sản chung, Tòa án phải xem xét giao cửa hàng tạp hóa cho người vợ, giao xe ô tô cho người chồng để họ tiếp tục kinh doanh, tạo thu nhập. Người chồng nhận được phần giá trị tài sản lớn hơn phải thanh toán cho người vợ phần giá trị là 100 triệu đồng.
Bốn là, lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng bao gồm những vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn. Chẳng hạn, trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên. Yếu tố lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng khi xem xét cần lưu ý yếu tố này phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc ly hôn của vợ chồng, đó có thể là không chăm lo làm ăn, cố tình tẩu tán tài sản, cờ bạc, rượu chè, có hành vi ngoại tình, bạo lực gia đình… Nếu một bên có lỗi nhưng không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến ly hôn thì không xem xét, đánh giá khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn có xem xét yếu tố lỗi của mỗi bên, đòi hỏi các bên phải chứng minh được lỗi của đối phương với các căn cứ cụ thể để Tòa án xem xét. Vấn đề này trong thực tiễn là khó chứng minh vì những hành vi bạo lực trong gia đình nhiều khi có xảy ra trên thực tế nhưng không được ghi nhận do không có sự trình báo đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết, lời khai của những người làm chứng cũng chỉ có thể mang tính chất tham khảo do mang yếu tố chủ quan. Vì vậy, khi chia tài sản có xem xét đến vấn đề lỗi, Tòa án phải căn cứ vào các tình tiết một cách toàn diện, khách quan, công bằng để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự.
Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ, chồng khi chia tài sản chung khi ly hôn | là một trong những nguyên tắc rất quan trọng khi chia tài sản chung của vợ chồng. Một trong những điểm tiến bộ của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là đã thừa nhận lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập. Có nghĩa là, khi người chồng hoặc vợ đi làm, có thu nhập, dù người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc nhà cửa, con cái cũng được ghi nhận là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Đây là quy định mang tính nhân văn, phù hợp với chính sách pháp luật của Việt Nam. Đồng thời, quy định này cho thấy cái nhìn thấu đáo của các nhà làm luật, coi trọng công sức lao động của vợ, chồng trong hôn nhân không phân biệt là lao động có thu nhập hay không có thu nhập. Thực tiễn ở nước ta hiện nay, vẫn còn nhiều gia đình coi kinh tế do người chồng tạo ra thuộc sở hữu của người chồng mà không coi trọng đóng góp của người phụ nữ chăm lo công việc nội trợ, chăm sóc gia đình, vì họ không có thu nhập. Quy định này đề cao vai trò quán xuyến, chăm lo gia đình của người phụ nữ được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Đó là công sức lao động chính đáng của họ đã bỏ ra để thu vén cho gia đình trong suốt thời kỳ hôn nhân và được pháp luật Hôn nhân và gia đình công nhận là lao động có thu nhập tương đương với người đi làm.
Có thể thấy, các yếu tố trong nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng về quyền sở hữu khi chia tài sản chung của vợ chồng mang tính định tính. Do đó, đòi hỏi Thẩm phán khi giải quyết vụ án phải nắm vững các quy định của pháp luật nhưng không phải một cách máy móc, rập khuôn mà cần phải thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ có sự kiểm tra, đánh giá khách quan, kỹ lưỡng mọi vấn đề liên quan tới tài sản trong thời kỳ hôn nhân giữa vợ và chồng mà cần xem xét tổng thể và khách quan. Có như vậy, việc đưa ra phán quyết mọi có thể được thực hiện đúng đắn, khách quan, minh bạch, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên đương sự.
Thứ ba, nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc chia theo giá trị được hưởng.
Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung hợp nhất. Khối tài sản có thể rất đa dạng, nó có thể phân chia, dịch chuyển được hoặc không. Vì thế, khi phân chia tài sản, đối với những loại tài sản không phân chia được có thể gây khó khăn trong việc giải quyết. Để điều chỉnh vấn đề này, Luật HN& GĐ năm 2014 quy định “Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch” (Khoản 3 Điều 59).
Nguyên tắc này được ghi nhận giúp cho việc phân chia tài sản khi ly hôn được giải quyết dễ dàng hơn và cũng không làm mất đi giá trị của tài sản khi phân chia. Nếu tài sản được xác định phân chia được thì sẽ áp dụng việc phân chia bằng hiện vật trên cơ sở xem xét các yếu tố để đảm bảo lợi ích cho các bên. Nếu tài sản không phân chia được sẽ áp dụng việc phân chia bằng giá trị, giao tài sản cho một bên sở hữu và tính toán phần chênh lệch để thanh toán cho nhau. Giá trị của tài sản được xác định bằng việc định giá tài sản theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc [Khoản 5 Điều 7, 27].
Có thể thấy, nguyên tắc này đã giúp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết vụ án chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn đối với những tài sản đa dạng, phức tạp hiện nay của vợ chồng như các căn hộ chung cư, xe ô tô, xe máy… để tránh làm giảm hay mất giá trị của tài sản. Việc áp dụng nguyên tắc này cần trên cơ sở đánh giá, xem xét giá trị tài sản một cách khách quan, đúng đắn, ưu tiên việc phân chia bằng hiện vật, nếu không phân chia được mới thực hiện chia bằng giá trị nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên, tránh khiếu kiện kéo dài.
Thứ tư, nguyên tắc bảo đảm quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng
Pháp luật dân sự nói chung, luật Hôn nhân và gia đình nói riêng tôn trọng quyền sở hữu của công dân đối với tài sản. Khoản 4 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung. Như vậy, các đương sự có quyền tự do định đoạt đối với tài sản của mình. Tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của vợ hoặc chồng là tài sản riêng. Trong trường hợp họ đã tự nguyện nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung thì mới được xem là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định tài sản riêng, tài sản chung không dễ dàng bởi lẽ, khi cuộc sống hôn nhân êm ấm, vợ chồng sẵn sàng chia sẻ cho nhau những tài sản mình đang có, cùng sử dụng chung những tài sản là của riêng nhưng không có văn bản, giấy tờ nào thỏa thuận rõ ràng về tài sản đó. Khi phát sinh mâu thuẫn, việc chứng minh tài sản riêng, tài sản chung lại cần những căn cứ pháp lý xác thực. Vì vậy, có những trường hợp đương sự cho rằng các bên đã tự nguyện để khối tài sản của mình vào thành tài sản chung của vợ chồng nên đã cùng tôn tạo, sửa chữa, xây dựng, duy trì khối tài sản nhưng đến khi có tranh chấp lại tranh cãi nhau về quyền sở hữu riêng. Do đó, việc xác định về quyền tài sản cần phải được kiểm tra, xem xét, đánh giá kỹ càng trên cơ sở nguyên tắc đảm bảo quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng để đảm bảo quyền lợi cho các bên.
Thứ năm, nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Pháp luật hiện nay ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Sự ghi nhận này xuất phát từ việc vẫn còn tồn tại những tư tưởng trọng nam, khinh nữ do đó, việc bảo vệ phụ nữ và trẻ em luôn được nêu cao và có nhiều quy định giành quyền ưu tiên cho phụ nữ và trẻ em. Khoản 4 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ghi nhận nguyên tắc cơ bản: “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình”. Phụ nữ và trẻ em thường là những đối tượng dễ bị xâm hại, cần có sự quan tâm, bảo vệ hợp lý của pháp luật. Theo đó, khi chia tài sản chung của vợ chồng cần đảm bảo nguyên tắc “Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, và không có tài sản để tự nuôi mình” (Khoản 5 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Nguyên tắc này được quy định đề cao tính nhân văn, nhân đạo của Nhà nước và pháp luật, tôn trọng, bảo vệ tạo điều kiện phát triển tốt nhất cho người phụ nữ và trẻ em khi cuộc sống gia đình không còn được trọn vẹn. Trong cuộc sống hôn nhân, người vợ thường hy sinh công việc để ở nhà nội trợ, chăm lo con cái. Luật Hôn nhân và gia đình đã thừa nhận lao động của người vợ khi ở nhà chăn sóc cho gia đình tương đương lao động có thu nhập của người chồng. Tuy nhiên, khi ly hôn, việc phân chia tài sản nhiều trường hợp người chồng lại đưa ra những căn cứ cho rằng tài sản do chồng tạo lập nên, là tài sản riêng mà không ghi nhận công sức của người vợ. Bên cạnh đó là việc người vợ sẽ phải thay đổi cuộc sống khi ly hôn, tìm công việc để kiếm nguồn thu nhập đảm bảo cuộc sống sau này chứ không thể tiếp tục ở nhà nội trợ. Ngoài ra, những trường hợp ly hôn cũng ảnh hưởng rất nhiều đến con cái. Đây là những đối tượng dễ bị tổn thương, chưa phát triển đầy đủ hoặc bị hạn chế về thể chất và tinh thần. Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Do đó, Luật Hôn nhân và gia đình ghi nhận nguyên tắc này khi vợ chồng chia tài sản khi ly hôn nhằm bảo vệ người phụ nữ và trẻ em chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi để họ có điều kiện duy trì cuộc sống bình thường. Khi xem xét nguyên tắc này, việc chia tài sản có thể được ưu tiên để tạo điều kiện về nguồn kinh tế ban đầu sau khi ly hôn, nơi ăn, trốn ở ổn định cho người vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình để đảm bảo việc học tập, chữa bệnh, phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. Nguyên tắc này là một nguyên tắc thể hiện tính nhân đạo của pháp luật nói chung, Luật Hôn nhân và gia đình nói riêng, giúp nhanh chóng ổn định cuộc sống của các đương sự khi ly hôn.
2.2. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận:
Khoản 1 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thực hiện theo quy định tại các điều 47, 48, 49, 50 và 59 của Luật này”. Trường hợp vợ chồng đã có thỏa thuận với nhau về chế độ tài sản thì việc phân chia tài sản khi ly hôn trước tiên sẽ tôn trọng sự thỏa thuận này của các đương sự. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là tập hợp các quy tắc do chính vợ, chồng cùng thống nhất xây dựng nên một cách hệ thống trên cơ sở sự cho phép của pháp luật để điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng. Pháp luật dân sự nói chung, Luật Hôn nhân và gia đình nói riêng tôn trọng quyền tự do lựa chọn của các đương sự. Theo đó, vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận (Khoản 1 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Khi hai bên vợ chồng kết hôn, lựa chọn hình thức chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký kết hôn (Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Khi vợ chồng ly hôn, có yêu cầu chia tài sản chung thì Tòa án sẽ xem xét trường hợp nếu hai bên có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Bởi lẽ, trong nội dung của văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng này đã nêu rõ tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình; Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản;… Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định áp dụng theo luật định, đồng thời những thỏa thuận có hiệu lực vẫn được tôn trọng và thực hiện.
Các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn được pháp luật ghi nhận là những tư tưởng mang tính chỉ đạo, có vai trò định hướng và phải được tuân thủ khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Tuy nhiên, các nguyên tắc cần được áp dụng một cách thống nhất, khách quan, đảm bảo được quyền lợi chính đáng của các đương sự trong vụ án, tránh trường hợp do là quy định mở nên áp dụng tùy tiện, gây bức xúc cho đương sự, khiến vụ án bị khiếu kiện kéo dài.