Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
1.1. Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
Thỏa thuận ấn định giá là một thỏa thuận bất kì giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm tăng, giảm hoặc duy trì giá sản phẩm, dịch vụ trên thị trường. Về bản chất, thỏa thuậnấnđịnh giá là thỏa thuận nhằm loại bỏ, triệt tiêu hoặc hạn chế cạnh tranh về giá cả giữa các doanh nghiệp. Thỏa thuận ấn định giá có thể bao gồm các thỏa thuận (ngầm hoặc công khai)nhằm tăng, giảm, kìm giữ giá các sản phẩm trên thị trường.
Các hình thức của thỏa thuậnấnđịnh giá hàng hóa dịch vụ được quy định tại Điều 14 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
1. Áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng.
2. Tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể.
3. Áp dụng công thức tính giá chung.
4. Duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan.
5. Không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất.
6. Dành hạn mức tín dụng cho khách hàng.
7. Không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận.
8. Sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu.”
1.2. Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ
Thỏa thuận phân chia thị trường là những thỏa thuận trong đó các đối thủ cạnh tranh phân chia các thị trường với nhau theo lãnh thổ, theo lượng cung, cầu của từng doanh nghiệp hoặc theo nhóm khách hàng cụ thể.
Theo pháp luật Việt Nam, thỏa thuận phân chia thị trường được quy định chi tiết tại Điều 15 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP và được chia thành:
– Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ (thị trường bán): là việc thống nhất về số lượng hàng hóa, dịch vụ; địađiểm mua, bán hàng hóa, dịch vụ; nhóm khách hàng đối với mỗi bên tham gia thỏa thuận.
– Thỏa thuận phân chia nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ là việc thống nhất mỗi bên tham gia thỏa thuận chỉ được mua hàng hóa, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn cung cấp nhất định.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
1.3. Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, dịch vụ
Điều 16 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định: “Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ
1. Thoả thuận hạn chế số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ là việc thống nhất cắt, giảm số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường liên quan so với trước đó.
2. Thoả thuận kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ là việc thống nhất ấn định số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ ở mức đủ để tạo sự khan hiếm trên thị trường.”
Về bản chất, thỏa thuận này là những toan tính tác động trực tiếp đến quan hệ cung cầu của thị trường bằng cách tạo ra sự khan hiếm giả tạo về hàng hóa, dịch vụ mà các doanh nghiệp kinh doanh. Sự khan hiếm giả tạo được chứng minh bằng năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, theo đó họđãthống nhất cắt giảm số lượng sản xuất, mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ hoặc ấnđịnh số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hóađủ để tạo khan hiếm trên thị trường trong khi năng lực sản xuất, mua bán hoặc cung ứng của họđủđápứng nhu cầu thị trường. Năng lực kinh doanh của doanh nghiệp được xácđịnh bằng số lượng, khối lượng hàng hóa, dịch vụ đã sản xuất mua bán hoặc cung ứng trước khi có thỏa thuận.
1.4. Thỏa thuận hạn chế phát triển kĩ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư
Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ là việc thống nhất mua sáng chế, giải pháp hữuích, kiểu dáng công nghệ để tiêu hủy hoặc không sử dụng.
Thỏa thuận hạn chế đầu tư là việc thống nhất không được thêm vốn để mở rộng sản xuất, chất lượng hàng hóa, dịch vụ hoặc để mở rộng phát triển khác.
Thị trường ngày càng phát triển nên để có thểđápứng được nhu cầu của người tiêu dùng, các doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh với nhau về giá mà còn cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã, tính năng của sản phẩm. Điềuđóđòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng tăng cường đầu tư và phát triển kỹ thuật, công nghệ. Những thỏa thuận hạn chế này sẽ kìm hãm sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và gây thiệt hại tới lợiích của người tiêu dùng.
1.5. Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện kí kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng
Theo pháp luật Việt Nam, thỏa thuậnáp đặt cho doanh nghiệp khácđiều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ là việc thống nhất đặt một hoặc một sốđiều kiện tiên quyết sau đây trước khi ký kết hợp đồng:
– Hạn chế về sản xuất, phân phối hàng hóa khác; mua, cung ứng dịch vụ khác không liên quan trực tiếp đến cam kết của bên nhậnđại lý theo quy định của pháp luật vềđại lý;
-Hạn chế về địa điểm bán lại hàng hóa, trừ những hàng hóa thuộc danh mục mặt hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định của pháp luật;
– Hạn chế về khách hàng mua hàng hóa để bán lại, trừ những hàng hóa thuộc trường hợp trên;
– Hạn chế về hình thức, số lượng hàng hoá được cung cấp.
Các thỏa thuận này chỉ thuộc phạm vi điều chỉnh của
1.6. Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh
Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận (tẩy chay) hoặc cùng hành động dưới một trong các hình thức:
– Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình không mua, bán hàng hoá, không sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận;
– Mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể tham gia thị trường liên quan.
Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận hoặc cùng hành động dưới một trong các hình thức sau:
– Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, các nhà bán lẻ đang giao dịch với mình phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hóa của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận theo hướng gây khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp này;
– Mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh.
Loại thỏa thuận này đượcáp dụng với các doanh nghiệpđang muốn gia nhập thị trường hoặc phát triển kinh doanh không phải là các bên của thỏa thuận bằng cách tẩy chay hoặc phong tỏa mạng lưới phân phối, tiêu thụ hoặc nguồn cung cấp hàng hóa (dịch vụ) của mình hoặc thống nhất tăng giá mua hoặc giảm giá bán hàng hóa (dịch vụ) và chấp nhận giảm lợi nhuận nhằm ngăn chặn các doanh nghiệp khác gia nhập thị trường hoặc mở rộng thị phần.
1.7. Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận
Đây là loại thỏa thuận trong đó các bên thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận và cùng hành động dưới hình thức:
– Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình không mua, bán hàng hoá, không sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận;
– Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, các nhà bán lẻ đang giao dịch với mình phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hóa của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận theo hướng gây khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp này;
– Mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh.
Đối tượng bị tác động là các doanh nghiệpđang hoạt động trên thị trường liên quan và mụcđích của loại thỏa thuận này là loại bỏ, buộc đối tượng bị tác động phải rút lui khỏi thị trường liên quan.
1.8. Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ
Thông đồng đấu thầu là những thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm làm sai lệch kết quả đấu thầu đểđạt được mục tiêu của mình.
Bản chất hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận thông đồng trong đấu thầu là các bên tham gia đã loại bỏ cạnh tranh giữa họ hoặc với những doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận để giành quyền trúng thầu cho người mà họ chỉđịnh. Quan hệ cạnh tranh mà người mời thầu mong muốn sử dụng để tìm kiếm người cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ tốt nhấtđã bị phá bỏ bằng thỏa thuận thông đồng của những người tham gia dự thầu. Vì vậy, người mời thầuđã không thểđạt đượcý định của mình, cuộc cạnh tranh đã trở thành giả tạo giữa những người dự thầu khi tổ chức đấu thầu. Bằng sự thông đồng, các bên dự thầuđã phá hỏng cơ chế cạnh tranh trong đấu thầu nên người trúng thầu được lựa chọn nhưng không do cơ chế cạnh tranh theo đúng ýđịnh của người mời thầu mà do các doanh nghiệp tham gia thông đồng xácđịnh.
Theo pháp luật Việt Nam, đây là loại thỏa thuận trong đó các bên thống nhất cùng hành động trong đấu thầu dưới các hình thức được quy định tại Điều 21 Nghị định 116/2005/NĐ-CP:
“1. Một hoặc nhiều bên tham gia thoả thuận rút khỏi việc dự thầu hoặc rút đơn dự thầu được nộp trước đó để một hoặc các bên trong thoả thuận thắng thầu.
2. Một hoặc nhiều bên tham gia thoả thuận gây khó khăn cho các bên không tham gia thoả thuận khi dự thầu bằng cách từ chối cung cấp nguyên liệu, không ký hợp đồng thầu phụ hoặc các hình thức gây khó khăn khác.
3. Các bên tham gia thoả thuận thống nhất đưa ra những mức giá không có tính cạnh tranh hoặc đặt mức giá cạnh tranh nhưng kèm theo những điều kiện mà bên mời thầu không thể chấp nhận để xác định trước một hoặc nhiều bên sẽ thắng thầu.
4. Các bên tham gia thoả thuận xác định trước số lần mỗi bên được thắng thầu trong một khoảng thời gian nhất định.
5. Những hành vi khác bị pháp luật cấm.”