Các hình phạt áp dụng đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Hình phạt chính, hình phạt bổ sung với các khung cơ bản, khung tăng nặng,...
Mục lục bài viết
1. Về hình phạt chính:
Có thể nói quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của con người được pháp luật Việt Nam tôn trọng và bảo vệ bằng việc ghi nhận và bảo vệ các quan hệ sở hữu hợp pháp, đồng thời xử lý nghiêm khắc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Thể hiện quan điểm này, pháp luật Việt Nam quy định khá nghiêm khắc đối với người phạm tội thuộc nhóm tội phạm này trong đó có Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. BLHS năm 2015 quy định 4 khung hình phạt tương ứng các mức độ hậu quả khác nhau bao gồm: khung hình phạt cơ bản, khung tăng nặng thứ nhất, khung tăng nặng thứ hai và khung tăng nặng thứ ba.
1.1. Khung cơ bản:
Khung hình phạt cơ bản áp dụng đối với những trường hợp người phạm tội phạm tội ít nghiêm trọng được quy định tại khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015 với hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Người phạm tội bị áp dụng khung hình phạt cơ bản khi thoả mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.
Thứ hai, chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
Khi QĐHP,
tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ; ngược lại nếu người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ hoặc bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào đó thì tùy trường hợp sẽ bị áp dụng khung hình phạt từ 6 tháng đến 3 năm tương xứng với hành vi phạm tội.
1.2. Khung tặng nặng thứ nhất:
Theo khoản 2 Điều 174 BLHS năm 2015 thì người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể phải chịu mức hình phạt phạt tù từ 02 năm đến 07 năm khi thuộc một trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, phạm tội có tổ chức: Là trường hợp mà những người phạm tội có sự câu kết chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện hành vi phạm tội.
Giữa những người phạm tội có sự bàn bạc, phân công vai trò, trách nhiệm để đạt được mục đích của mình. Khoản 3 Điều 17 quy định: “Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, thực hành, xúi giục, giúp sức”. Tuy nhiên trong từng trường hợp cụ thể không phải lúc nào cũng có đủ 4 người trên, nhưng ít nhất có từ 2 người trở lên mới được coi là đồng phạm và trong đó bắt buộc phải có một người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm và người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác.
Thứ hai, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp: Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp được hiểu là người phạm tội lấy việc lừa đảo người khác để chiếm đoạt tài sản là cách thức kiếm sống của mình, được thực hiện nhiều lần, lặp đi lặp lại và tài sản chiếm được là nguồn thu nhập chính cho cuộc sống của họ. Tuy nhiên cũng cần phải lý giải rõ hơn về nội dung này, có nghĩa là không phải người nào thực hiện hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác nhiều lần, lặp đi lặp lại cũng được coi là có tính chất chuyên nghiệp bởi lẽ nếu họ thực hiện tội phạm trên nhưng tài sản chiếm được không phải là nguồn thu nhập chính của họ và hành vi của họ cũng không phải là phương tiện để kiếm sống thì chỉ được coi là phạm tội nhiều lần. Trong trường hợp này, Toà án sẽ áp dụng việc phạm tội này được coi là tình tiết tăng nặng theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự tức phạm tội từ hai lần trở lên.
Tính chất chuyên nghiệp ở đây được nhấn mạnh rằng ngoài việc thực hiện tội phạm nhiều lần, cách thức giống nhau thì người phạm tội dùng thủ đoạn đó để làm phương tiện kiếm sống, nguồn thu nhập chính của bản thân họ thì mới được coi là có tính chất chuyên nghiệp. Cụ thể, người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khi thoả mãn điều kiện: Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án tích.
Thứ ba, chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng: Đây là trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá thấp nhất là 50.000.000 đồng và nhiều nhất lên đến 200.000.000 đồng cũng được coi là định khung tăng nặng thứ nhất. Do đó khi QĐHP, Tòa án cần phải căn cứ vào trị giá tài sản bị chiếm đoạt để QĐHP cho phù hợp.
Thử tư, phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý theo khoản 2 Điều 53 BLHS.
Thứ năm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức để phạm tội: Là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức mà người phạm tội dựa vào sự thuận lợi do chức vụ mà mình đảm nhiệm tại cơ quan, tổ chức để thực hiện hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn này cũng thường tinh vi, khó bị phát hiện. Ngôn từ của điều luật không quy định giới hạn chức vụ, quyền hạn cụ thể nào và của cơ quan cụ thể nào, cho nên có thể cho rằng điều luật áp dụng cho tất cả các chức vụ, quyền hạn trong tất cả các cơ quan, tổ chức trong hay ngoài nhà nước.
BLHS năm 2015 không quy định thế nào là lợi dụng chức vụ quyền hạn, nhưng tại khoản 6 Điều 3 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng thẩm phán
Tuy nhiên, dù là tình tiết định tội hay tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, thì lợi dụng chức vụ quyền hạn đều thuộc yếu tố chủ thể trong cấu thành tội phạm, liên quan đến Cá nhân (Người nào), không có pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự khi có yếu tố lợi dụng chức vụ quyền hạn. Việc áp dụng tình tiết lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản để định tội hay QĐHP, phải căn cứ vào vụ án hình sự cụ thể, theo nguyên tắc các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng (Điều 52 khoản 2 Bộ luật Hình sự); những vướng mắc, xung đột khi áp dụng tình tiết này cần phải được tổng hợp, giải đáp hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ sáu, dùng thủ đoạn xảo quyệt phạm tội: Là trường hợp người phạm tội có những thủ đoạn tinh vi hoặc gian dối cao làm cho người bị hại và những người khác khó lường trước để đề phòng và cơ quan điều tra cũng khó phát hiện.
1.3. Khung tặng nặng thứ hai:
Theo khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất, chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng: Người nào cố ý chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng sẽ bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng quy định tại khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Thứ hai, Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để phạm tội: Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm 1 khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Sở dĩ pháp luật hình sự quy định như vậy là do tính chất, mức độ nguy hiểm của việc lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để phạm tội cao hơn so với phạm tội trong điều kiện bình thường.
Người bị buộc tội lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để phạm tội ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự mà họ phải chịu khi Tòa án QĐHP, nếu bị áp dụng tình tiết này, người bị buộc tội sẽ bị áp dụng mức hình phạt nặng hơn bình thường bởi lẽ:
Một là, xuất phát từ đặc thù của thiên tai, dịch bệnh có tính nguy hiểm cao đối với con người và toàn xã hội mà trong đó chỉ một cá nhân vi phạm các biện pháp phòng chống đã gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc làm mất đi sự bình ổn xã hội. Hơn nữa, trong điều kiện có thiên tai, dịch bệnh, hậu quả do thiên tai, dịch bệnh là rất lớn. Việc người bị buộc tội lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để phạm tội gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, gây hoang mang cho nhân dân. Ví dụ như trong tình hình hiện nay cả thế giới đang chung tay phòng chống đại dịch Covid 19 nhằm tránh sự lây lan của dịch bệnh này tới mọi người, thì một số cá nhân lợi dụng nhu cầu thiết yếu của người dân, bán tràn lan các loại thuốc phòng chống Covid không rõ nguồn gốc xuất xứ, các loại khẩu trang giả kém chất lượng với mục đích tư lợi mà không nghĩ đến hậu quả của nó đối với người tiêu dùng, ảnh hưởng đến đất nước, đến nền kinh tế chính trị của quốc gia.
Hai là, việc người bị buộc tội lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để phạm tội làm cho các biện pháp phòng, chống dịch bệnh hoặc cứu trợ, tìm kiếm cứu các biện pháp khắc phục thiên tai, dịch bệnh của chính quyền, của Nhà nước trở lên kém hiệu quả hoặc vô hiệu.
Ba là, thiên tai, dịch bệnh là những bối cảnh xã hội đặc biệt đòi hỏi sự chung tay, tự giác chấp hành pháp luật của tất cả người dân trong xã hội. Việc người bị buộc tội lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để phạm tội có khả năng gây hậu quả rất lớn, khó khắc phục hoặc phải mất nhiều nguồn lực của Nhà nước mới khắc phục được. Mặt khác, thiên tai, dịch bệnh khiến ngưng trệ hoạt động sản xuất kinh doanh, hạn chế cơ hội việc làm, tỷ lệ người thất nghiệp gia tăng dẫn đến các loại tội phạm xảy ra nhiều hơn.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nói chung và tình tiết “lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để phạm tội” cần được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng đảm bảo vừa có tính răn đe, phòng ngừa vừa không để xảy ra sai sót, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị buộc tội. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ để Tòa án QĐHP. Theo đó, việc Tòa án áp dụng tình tiết “lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để phạm tội” cũng như các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khác có tác dụng làm tăng hình phạt trong phạm vi một khung hình phạt nhất định. Mức độ tăng này phụ thuộc vào mức khó khăn nhiều hay ít do thiên tai, dịch bệnh khi tội phạm xảy ra và ý thức lợi dụng của người phạm tội đối với khó khăn đó. Việc tăng nặng trách nhiệm hình sự khi áp dụng tình tiết “lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để phạm tội” chủ yếu mang tính định tính, không rõ ràng, cụ thể như đối với tình tiết định khung tăng nặng, phụ thuộc vào nhận định, đánh giá và áp dụng của Tòa án khi xét xử.
1.4. Khung tặng nặng thứ ba:
Theo khoản 4 Điều 174 BLHS 2015, người phạm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân khi thoả mãn một trong các dấu hiệu sau:
Thứ nhất, chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên hoặc Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
Thứ hai, lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để phạm tội. Trước đây, BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định tại khoản 4 khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân khi có dấu hiệu gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên BLHS năm 2015 đã bỏ dấu hiệu này, thay vào đó là quy định: “Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”. Quy định này được hiểu như sau:
Về lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh để phạm tội: Hoàn cảnh được hiểu là những nhân tố khách quan bên ngoài có tác động đến sự sinh sống, sự hoạt động của con người, đến sự xảy ra hoặc diễn biến của sự việc nào đó. Chiến tranh là sự xung đột vũ trang giữa các giai cấp, các dân tộc hoặc các nước nhằm thực hiện mục đích chính trị, kinh tế nhất định. Như vậy, “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh để phạm tội” là trường hợp người phạm tội đã dựa vào các điều kiện thuận lợi cho mình được tạo ra bởi chính sự khó khăn trong hoàn cảnh đất nước đang có chiến tranh để phạm tội. Ví dụ: Khi đất nước đang có chiến tranh, ông A đã thu mua toàn bộ số thuốc chữa bệnh để đầu tạo sự khan hiếm thuốc trong cả một vùng rồi sau đó bán ra với giá cao. Hoàn cảnh chiến tranh càng ác liệt, khó khăn và tính chất, mức độ lợi dụng càng cao, thì mức tăng nặng hình phạt (chuyển loại hình phạt nặng hơn, tăng mức hình phạt tù hoặc phạt tiền hoặc thời gian cải tạo không giam giữ) đối với người phạm tội càng nhiều và ngược lại.
Về lợi dụng tình trạng lúc khẩn cấp để phạm tội là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng tình trạng khẩn cấp trong đời sống xã hội để thực hiện hành vi phạm tội. Tình trạng khẩn cấp là tình trạng cấp bách của xã hội và của cá nhân mỗi người, khi ở trong tình trạng đó mọi người đều tập trung vào việc giải quyết, cứu chữa kịp thời, nhanh chóng thoát ra khỏi tình trạng này. Tình trạng khẩn cấp này không phải do thiên tai, địch họa hoặc do dịch bệnh gây nên mà do chính con người hoặc do hoàn cảnh xã hội, do cuộc sống gây nên, như do bị tai nạn, bị hỏa hoạn, bị cấp cứu vì bệnh hiểm nghèo … Tình trạng này chỉ xảy ra chốc lát, trong một thời gian nhất định, không kéo dài.
Lợi dụng tình trạng khẩn cấp để phạm tội, xét về mặt đạo đức cần bị lên án, vì trong tình trạng đó mọi người tập trung vào việc giải quyết hậu quả, cứu chữa người bị nạn, thì người phạm tội lại lợi dụng để thực hiện tội phạm, chứng tỏ động cơ, mục đích rất xấu, cần phải trừng trị. Để xác định người phạm tội có hành vi lợi dụng tình trạng khẩn cấp để thực hiện hành vi phạm
tội hay không, phải xem họ thực hiện hành vi phạm tội trong một hoàn cảnh nào và hoàn cảnh đó có thật sự là tình trạng khẩn cấp hay không, đồng thời phải xác định người phạm tội phải lợi dụng tình trạng khẩn cấp đó để thực hiện tội phạm thì mới được coi là “lợi dụng tình trạng khẩn cấp để phạm tội”. Mức độ tăng nặng của tình tiết này phụ thuộc vào ý thức lợi dụng và tính chất mức độ của hành vi phạm tội khi lợi dụng tình trạng khẩn cấp.
2. Về hình phạt bổ sung:
Ngoài việc bị áp dụng hình phạt chính như trên đã phân tích, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề từ 1 đến 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 174 BLHS năm 2015.
Hình phạt bổ sung áp dụng đối với trường hợp người phạm tội trước khi phạm tội có công việc, có thu nhập, có tài sản riêng đảm bảo có thể áp dụng được hình phạt bổ sung nhằm răn đe người phạm tội một cách nghiêm khắc và phần nào xác định được trách nhiệm của họ đối với tội lỗi mà họ gây ra.
Trường hợp người phạm tội bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề là trường hợp người phạm tội lợi dụng chức vụ, danh nghĩa cơ quan, tổ chức, nghề nghiệp công việc để phạm tội.
Tịch thu tài sản chỉ áp dụng đối với trường hợp phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, là việc tước đi một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án. Điều này không có nghĩa là lấy đi tất cả tài sản của họ mà vẫn để lại cho họ và người thân một phần nào đó để họ có điều kiện sinh sống.
3. Các biện pháp tư pháp hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt:
Các biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được BLHS quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng thay thế hoặc hỗ trợ hình phạt.
Việc áp dụng các biện pháp tư pháp ngoài mục đích cải tạo giáo dục răn đe người phạm tội còn có ý nghĩa ngăn ngừa khả năng sẽ gây hại đến các lợi ích được Luật Hình sự bảo vệ. Các biện pháp tư pháp có thể được áp dụng trong quá trình QĐHP đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm:
Thứ nhất, tịch thu vật, tiền liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội: Tiền và vật bị tịch thu phải liên quan đến hành vi phạm tội, được sử dụng vào việc phạm tội hoặc do phạm tội mà có hoặc là vật mà Nhà nước cấm tàng trữ, sản xuất, mua bán. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản việc tịch thu các vật, tiền mà người phạm tội đã nhận từ bị hại là việc cần thiết nhằm nhằm loại bỏ những điều kiện vật chất của tội phạm, ổn định và đảm bảo trật tự xã hội và có thể dùng để khắc phục các thiệt hại.
Thứ hai, trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại: Đây là biện pháp tư pháp buộc người phạm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Những tài sản này không liên quan đến hành vi phạm tội hoặc chủ sở hữu không biết người phạm tội sử dụng nó vào việc phạm tội thì cơ quan có thẩm quyền phải trả lại cho chủ sử dụng hợp pháp của tài sản đó. Trong trường hợp người phạm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm cho tài sản bị chiếm đoạt giảm giá trị thì còn phải bồi thường giá trị tài sản bị thiệt hại nếu chủ sở hữu có yêu cầu, nếu họ không có yêu cầu thì cơ quan có thẩm quyền không xem xét giải quyết. Trường hợp người phạm tội đã bán hay làm mất tài sản thì phải bồi thường toàn bộ giá trị tài sản cho chủ sở hữu.