Quy định về hình phạt đối với tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật. Bắt giữ người trái pháp luật là hanh vi như thế nào?
Theo quy định của pháp luật việc bắt, giữ hoặc giam người khác trái với quy định của pháp luật là hành vi xâm phạm đến quyền tự do cá nhân của mỗi người, là hành vi ngăn cản sự tự do đi lại của người khác. Đối với hệ thống pháp luật trên thế giới nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng đều xác định mỗi công dân đều có quyền được tự do đi lại, tự do dịch chuyển và không ai có quyền hạn chế và ngăn cản, tước đoạt điều đó. Theo đó nếu như người nào có hành vi sử dụng vũ lực hoặc sử dụng các thủ đoạn, có các hành động nhằm đe dọa hay khống chế người khác để giam giữ, bắt giữ làm tước doạt quyền tự do thân thể của người khác thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.Trong pháp luật hình sự Việt Nam tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật được quy định tại điều 157 Bộ luật hình sự 2015.
Đối với các dấu hiệu cấu thành tội phạm bắt , giữ hoặc giam người trái pháp luật đuợc thể hiện ở việc người phạm tội có hành vi hạn chế quyền tự do đi lại của người khác nhằm đạt được mục đích của mình. Về hành vi khách quan đối với tội bắt người trái pháp luật thì người có phạm tội thực hiện hành vi vi phạm bằng cách thực hiện các hành vi sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực khống chế người khác để giam giữ họ trong một thời gian nhất định.
Việc giam giữ này không nhằm mục đích tống tiền, bởi nếu có yếu tố giữ người và tống tiền thì sẽ mang dấu hiệu của tội bắt cóc. Đối với hành vi giữ người trái pháp luật là việc người có hành vi phạm tội giữ người, kiểm soát việc đi lại của người khác trong một thời gian nhất định như trong buồng, trong nhà, trong trại giam. Theo đó, dấu hiệu dể nhận biết tội giữ, giam người trái pháp luật là việc người không có thẩm quyền nhưng vẫn cố tình thực hiện việc bắt, giữ người khác hoặc đối với những người có thẩm quyền để bắt giữa người khác nhưng lại thực hiện không đúng với quy định như cố tình sử dụng thẩm quyền của mình vào việc riêng, hoặc bắt người không đúng với quy trình theo quy định.
Về khách thể của tội phạm này hành vi phạm tội bắt, giữ người trái với quy định của pháp luật xâm phạm và ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quyền tự do thân thể, tự do đi lại của mỗi người. Đây là những quyền được nhà nước và pháp luật bảo vệ cho mỗi công dân. Người phạm tội dù biết hành vi này sẽ xâm phạm đến tinh thần, sức khỏe, quyền tự do của người bị hại thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý.Về hậu quả của hành vi vi phạm và mục đích của tội này không phải là dấu hiệu bắt buộc.
Luật sư
Hậu quả pháp lý của tội bắt, giữ hoặc giam người trái quy định là gây ra những sự tổn thương nhất định về tinh thần, sức khỏe cho người bị hại. Về mục đích của tội bắt , giam, giữ người trái quy định của pháp luật cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc, tuy nhiên trong một vài trường hợp nếu mục đích của hành vi vi phạm pháp luật có tương ứng với những dấu hiệu cấu thành của một tội danh khác thì người có hành vi phạm tội sẽ bị định tội ở một tội danh khác như bắt người nhưng có yếu tố tống tiền thì sẽ truy cứu tội bắt cóc chiếm đoạt tài sản, bắt người nhằm mục đích bán sang nước ngoài sẽ bị truy cứu tội mua bán người…
Về vấn đề mức hình phạt với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật được quy định tại Điều 157
Khung hình phạt thứ nhất quy định ở khoản 1 Điều 157 là khung hình phạt cơ bản. Theo quy định của Bộ luật hình sự,trong trường hợp người phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản về tội bắt, giữ hoặc giam người trái với quy định của pháp luật thì sẽ bị áp dụng khoản phạt này. Theo đó khoản 1 quy định đối với các trường hợp bắt, giữ hoặc giam người không đúng quy định của pháp luật sẽ bị áp dụng một trong 2 mức hình phạt đó là: đến 3 năm phạt cải tạo không giam giữ và hình thức phạt tù từ 6 tháng đến 36 tháng tù giam. Đây là mức khung hình phạt cơ bản áp dụng cho những hành vi phạm tội có cấu thành tội phạm ở mức cơ bản, chưa có những hậu quả nghiêm trọng, hay hành vi chưa đến mức nguy hiểm nghiêm trọng đến người bị hại và toàn xã hội. Áp dụng khung hình phạt này là hoàn toàn phù hợp với mức độ hành vi gây ra.
Khung hình phạt thứ hai quy định ở khoản 2 Điều 157 Bộ luật hình sự 2015, là khung hình phạt tăng nặng. Theo đó, đối với những đối tượng bị áp dụng khoản 2 Điều 157 để xử lý là những trường hợp khi thực hiện hành vi phạm tội với những dấu hiệu phạm tội cơ bản cấu thành tội phạm thì còn có những tình tiết tăng nặng làm tăng thêm mức độ nguy hiểm của hành vi hay để lại những hậu quả nghiêm trọng hơn. Do đó mức xử phạt được áp dụng cho những trường hợp ngoài các dấu hiệu cơ bản còn có các tình tiết tăng nặng như:
Thực hiện hành vi với yếu tố có đồng phạm phối hợp cấu kết với nhau để thực hiện hành vi phạm tội; người phạm tội là người có chức vụ quyền hạn và lợi dụng về quyền lực này để bắt, giữ hoặc giam người trái với quy định của pháp luật; người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội này đối với những người đang thực hiện công việc, nhiệm vụ của mình; người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội bắt, giữ hoặc giam từ 2 người trở lên gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn với tinh thần và sức khỏe của nhiều người; người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm rồi nhưng vẫn tái phạm; hoặc đối với hành vi phạm tội với những đối tượng đặc biệt như bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật với người chưa thành niên, phụ nữ đang mang thai, người không có khả năng tự vệ để bảo vệ bản thân; hay với những hành vi vi phạm pháp luật làm cho người bị hại hoặc gia đình của người bị hại lâm vào hoàn cảnh khó khăn; hoặc làm cho người bị hại bị ảnh hưởng về tinh thần nghiêm trọng theo quy định của pháp luật.
Khung hình phạt thứ ba quy định ở khoản 3 Điều 157 Bộ luật hình sự 2015 với các khung hình phạt cụ thể như sau: Đối với các hành vi vi phạm với tội bắt, giữ hoặc giam người gây ra các hậu quả nghiêm trọng như người bị hại có hành vi tự sát hoặc thiệt hại về tính mạng; hay hành vi phạm tội này sử dụng các hình thức tra tấn , đánh đập tàn bạo, làm nhục người bị hại thì sẽ bị áp dụng hình phạt tù từ 5 năm đến 12 năm. Như vậy với những hành vi mô tả theo khoản này thì mức độ vi phạm có hành vi vi phạm với hậu quả để lại nghiêm trọng và các hành vi thực hiện tội phạm tinh vi, nguy hiểm hơn đồng nghĩa với việc người phạm tội sẽ bị áp dụng mức khung hình phạt nghiêm khắc hơn.
Bên cạnh các khung hình phạt về hình thức phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù thì theo quy định tại khoản 4 Điều 157 Bộ luật hình sự 2015 cũng quy định về hình thức xử phạt cấm đảm nhiệm chức vụ trong một khoảng thời gian nhất định theo quy định của pháp luật từ 12 tháng dến 60 tháng.
Như vậy, có thể nhận thấy các mức xử phạt về tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật theo quy định của Bộ luật hình sự khá phù hợp với hành vi và hậu quả để lại đối với tội phạm này, là mức xử phạt nhằm răn đe giáo dục những người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Mục lục bài viết
- 1 1. Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
- 2 2. Trách nhiệm hình sự khi giam người trái pháp luật
- 3 3. Hành vi tự ý bắt người giữ người bị xử lý thế nào?
- 4 4. Các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
- 5 5. Mức xử phạt hành vi bắt, giữ người trái pháp luật
- 6 6. Bắt giữ người trái phép xử lý ra sao?
1. Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
Tội bắt, giữ hoặc giam người được quy định tại Điều 123 “Bộ luật hình sự năm 2015” (sửa đổi, bổ sung năm 2009) với nội dung cụ thể như sau:
Điều 123. Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với người thi hành công vụ;
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Đối với nhiều người.
3. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.
1. Khái niệm: Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là một trong các tội về xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân được quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự. Việc thực hiện hành vi phạm tội ngày càng có chiều hướng gia tăng chủ yếu bắt nguồn từ việc đòi nợ hay thuê đòi nợ, một số vụ việc bắt nguồn từ động cơ, mục đích khác như trả thù cá nhân do mâu thuẫn trong sinh hoạt…
2. Các dấu hiệu cấu thành tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật:
2.1. Về mặt khách quan của tội phạm: khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự quy định: “1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Như vậy có ba hành vi phạm tội, đó là: bắt người trái pháp luật; giữ người trái pháp luật; giam người trái pháp luật. Tính trái pháp luật của việc bắt, giữ, giam người được đề cập trong điều luật là không đúng về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục pháp luật quy định trong việc bắt, giữ, giam người. Nội dung này đã quy định tại các điều: Điều 80 (Bắt bị can, bị cáo để tạm giam), Điều 81 (Bắt người trong trường hợp khẩn cấp), Điều 82 (Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã), Điều 86 (Tạm giữ), Điều 87 (Thời hạn tạm giữ) và Điều 88 (Tạm giam) của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 122 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành. Như vậy, để xác định hành vi bắt, giữ hoặc giam người có trái với các quy định của pháp luật hay không thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử cần phải đối chiếu với các quy định của pháp luật nói trên để xác định sai phạm ở khâu nào, mức độ và tính chất của sai phạm để từ đó có thể đưa ra nhận định về tội danh chính xác nhất. Trên thực tế, loại tội phạm này ngày càng có chiều hướng gia tăng với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Vì vậy cần nhận định rõ hai yếu tố quan trọng để xử lý về tội phạm này: Một là, người không có thẩm quyền mà bắt, giữ hoặc giam người (trừ trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc bắt người đang có lệnh truy nã); Hai là, người tuy có thẩm quyền nhưng lại bắt, giữ hoặc giam người không có căn cứ theo quy định của pháp luật. Thời điểm hoàn thành của tội phạm đối với trường hợp thứ nhất là thời điểm người phạm tội hoàn thành việc thực hiện hành vi bắt, giữ hoặc giam người. Còn thời điểm hoàn thành của tội phạm đối với trường hợp thứ hai là thời điểm lệnh bắt, giữ hoặc giam người đã được ký và có đóng dấu.
2.2. Về khách thể của tội phạm:
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nói riêng, quyền tự do, quyền dân chủ của công dân nói chung. Điều 71 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001) đã quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật”. Theo đó, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật xử lý vi phạm hành chính cũng cụ thể hóa về quyền này. Do đó, bất kỳ người nào xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân thông qua hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật thì tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm của cho xã hội đều bị xử lý bằng chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự.
2.3. Về mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý. Mục đích của tội phạm rất đa dạng, có thể là để đòi nợ, nhận tiền thuê đòi nợ, do tư thù cá nhân, do bị xúi giục…Tuy nhiên, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này. Song, trong quá trình xem xét mục đích phạm tội kết hợp đánh giá với hành vi khách quan của tội phạm cũng cần chú ý khi định tội danh. Ví dụ:
– Nếu người phạm tội có hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nhưng có mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản thông qua việc đe doạ thân nhân, gia đình của người bị hại dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị truy cứu TNHS về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134) trên những cơ sở chung.
– Nếu người phạm tội có hành vi bắt, giữ hoặc giam trái pháp luật đối tượng là người lớn (từ đủ 16 tuổi trở lên, cả nam và nữ giới) hoặc trẻ em (dưới 16 tuổi) nhằm mục đích mua bán, trao đổi, thì bị truy cứu TNHS về Tội mua bán người (Điều 119) hoặc Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120) trên những cơ sở chung…
Vì vậy, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử cũng cần xem xét mục đích của việc phạm tội để đưa ra những đánh giá chính xác nhất về việc thực hiện hành vi.
2.4. Về chủ thể của tội phạm: Theo quy định của Bộ luật hình sự thì tất cả mọi công dân Việt Nam, người nước ngoài; người không có quốc tịch ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đều có thể là chủ thể của tội phạm này.
2. Trách nhiệm hình sự khi giam người trái pháp luật
Tóm tắt câu hỏi:
Bà A cho một công ty thuê nhà. Nhưng chỉ vì có một mâu thuẫn mà bà A tự ý khóa cửa phòng làm cho ba nhân viên bị nhốt trong đó nhiều giờ. Sau đó, nhờ có sự can thiệp của công an thì cửa mới được mở. Vậy Luật sư cho hỏi bà A có vi phạp pháp luật không và sẽ bị xử phạt như thế nào?
Luật sư tư vấn:
Hành vi của bà A đã xâm phạm đến quyền tự do của cá nhân. Điều 123 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với người thi hành công vụ;
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Đối với nhiều người.
3. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.”
Như vậy, căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự thì bà A có thể bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm.
3. Hành vi tự ý bắt người giữ người bị xử lý thế nào?
Tóm tắt câu hỏi:
Có người nợ tôi một số tiền lớn, đã một thời gian lâu rồi nhưng anh ta không chịu trả. Mỗi ngày vợ anh ta đều đi bán hàng ngang nhà tôi, tôi muốn giữ vợ anh ta ở lại nhà mình (không có bất kì hành vi nào xâm phạm đến vợ anh ta) để buộc anh ta phải trả tiền. Vậy xin hỏi tôi làm vậy có vi phạm pháp luật hay không?
Luật sư tư vấn:
Điều 6 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân như sau: Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải theo quy định của Bộ luật này.
Như vậy, chỉ có Tòa án, Viện Kiểm sát mới có quyền ra quyết định bắt, giữ một người (trừ trường hợp phạm tội quả tang). Trường hợp của bạn, không phải bắt, giữ người phạm tội quả tang nên việc bạn bắt, giữ vợ của người vay tiền ở nhà bạn là hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự:
1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với người thi hành công vụ;
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Đối với nhiều người.
3. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.
4. Các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
Khoản 1, Điều 123 “Bộ luật hình sự năm 2015” sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Bộ luật hình sự), quy định: “Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Từ nội dung này và căn cứ vào khoa học luật hình sự, ta thấy các dấu hiệu pháp lý và hình phạt áp dụng đối với tội phạm này như sau:
1. Khách thể của tội phạm
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nói riêng, quyền tự do, dân chủ của công dân nói chung.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền tự do cá nhân rất quan trọng của công dân.
Điều 20 Luật Hiến pháp 2013 quy định:
“1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nàokhác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.”
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cụ thể hoá bằng nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự Việt Nam – nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (Điều 6) – và hàng loạt các quy định chặt chẽ về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp bắt, giữ hoặc giam người. Ngoài ra, việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính cũng được quy định chặt chẽ trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Do đó, bất kỳ người nào xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân thông qua hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì tuỳ theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đều phải bị xử lý bằng chế tài hành chính hay chế tài hình sự.
Đối tượng tác động của tội phạm là con người cụ thể bị người phạm tội bắt, giữ hoặc giam trái pháp luật.
2. Mặt khách quan của tội phạm
Điều 123 Bộ luật hình sự quy định ba hành vi phạm tội: bắt người trái pháp luật; giữ người trái pháp luật; giam người trái pháp luật.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật được hiểu là các hành vi ngăn cản, tước đoạt sự tự do hoạt động, tự do dịch chuyển thân thể của người khác trái với những quy định của pháp luật về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục. Các hành vi này đều có cùng tính chất và đều là những hành vi xâm phạm quyền tự do thân thể của người khác, có mục đích tước đoạt sự tự do hoạt động, dịch chuyển thân thể của người khác nhưng chỉ khác nhau ở hình thức thể hiện.
Tính “trái pháp luật” được đề cập trong nội dung điều 123 Bộ luật hình sự là không đúng về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục pháp luật quy định trong việc bắt, giữ hoặc giam người theo quy định tại BLTTHS và Luật xử lý vi phạm hành chính.
Thời điểm hoàn thành của tội phạm đối với tội này là thời điểm người phạm tội hoàn thành việc thực hiện hành vi bắt, giữ hoặc giam người.
“Hậu quả của tội phạm” là gây ra những ảnh hưởng tiêu cực không tốt không chỉ đối với người bị bắt, giữ hoặc giam trái pháp luật, mà còn đối với cả người thân, gia đình họ. Ngoài ra, đối với trường hợp do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện thì việc làm này còn có thể làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật và đội ngũ cán bộ, công chức, làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm; đồng thời dẫn đến hậu quả là xâm phạm đến quyền tự do thân thể nói riêng, quyền tự do, dân chủ nói chung, đặc biệt là quyền con người của người đã bị bắt, tạm giữ hoặc tạm giam oan, sai. Nếu lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội sẽ bị xử lý theo điểm b Khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, “hậu quả của tội phạm” không phải là dấu hiệu bắt buộc trong yếu tố mặt khách quan của tội phạm. Nếu trường hợp người phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật mà “gây hậu quả nghiêm trọng” sẽ bị xử lý theo Khoản 3 Điều 123 Bộ luật này.
Trường hợp khi xem xét hành vi giam, giữ người trái pháp luật trong tội này cần phân biệt với hành vi giam, giữ người trái pháp luật của Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật (Điều 303 Bộ luật hình sự). Theo đó, điểm khác cơ bản nhất là hành vi giam, giữ người trái pháp luật quy định tại Điều 303 Bộ luật hình sự là hành vi không quyết định trả tự do hoặc hành vi không chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do của người có chức vụ, quyền hạn trong việc giam, giữ, bao gồm: điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, giám thị và nhân viên nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam. Ngoài ra, khách thể chung của tội phạm ở Điều 123 Bộ luật hình sự là xâm phạm đến quyền tự do, dân chủ của công dân, còn ở Điều 303 là xâm phạm hoạt động tư pháp. Do đó, ngoài hai hành vi đã nêu này, các hành vi giam, giữ người trái pháp luật khác đều phải xử lý theo Điều 123 Bộ luật hình sự trên những cơ sở chung.
Bên cạnh đó, nếu một người có hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nhưng người bị hại là người nước ngoài (người không có quốc tịch Việt Nam) đang sinh sống, du lịch hay làm việc tại nước ta thì người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội phạm này trên những cơ sở chung. Bởi lẽ, đối tượng tác động của tội phạm này là con người cụ thể (nói chung).
3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý. Mục đích phạm tội rất đa dạng, có thể do tư thù cá nhân, do muốn có thành tích, do xúi giục, do nhận tiền làm thuê;… Tuy nhiên, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này.
Mặc dù vậy, trong quá trình xem xét mục đích phạm tội kết hợp đánh giá với hành vi khách quan của tội phạm cũng cần chú ý khi định tội danh như sau:
– Nếu người phạm tội có hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nhằm mục đích giết người hoặc cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về Tội giết người (Điều 93) hoặc Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104) trên những cơ sở chung. Tuy nhiên, nếu người phạm tội có hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, đồng thời còn có hành vi giết người hoặc cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác từ 11 % trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp do luật định, thì bị truy cứu TNHS theo nguyên tắc phạm nhiều tội trên những cơ sở chung.
– Nếu người phạm tội có hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nhưng đối tượng là phụ nữ (hoặc trẻ em) nhằm mục đích hiếp dâm, thì bị truy cứu TNHS về Tội hiếp dâm (Điều 111) hoặc Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112) trên những cơ sở chung.
– Nếu người phạm tội có hành vi bắt, giữ hoặc giam trái pháp luật đối tượng là người lớn (từ đủ 16 tuổi trở lên, cả nam và nữ giới) hoặc trẻ em (dưới 16 tuổi) nhằm mục đích mua bán, trao đổi, thì bị truy cứu TNHS về Tội mua bán người (Điều 119) hoặc Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120) trên những cơ sở chung.
– Nếu người phạm tội có hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nhưng có mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản thông qua việc đe doạ thân nhân, gia đình của người bị hại dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị truy cứu TNHS về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134) trên những cơ sở chung.
– Nếu người phạm tội đã có ý định bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, đồng thời họ đã chuẩn bị công cụ, phương tiện, bố trí lịch trình, cách thức tiến hành, xác định thời gian, địa điểm mà người bị hại có mặt, chuẩn bị lực lượng tham gia… để thực hiện tội phạm, nhưng lại không thực hiện được hành vi phạm tội, thì căn cứ vào các tình tiết khách quan của vụ án và tuỳ trường hợp cụ thể, họ có thể bị truy cứu TNHS về tội phạm này nhưng ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt trên những cơ sở chung.
4. Chủ thể của tội phạm
Tội phạm được thực hiện bởi bất kỳ người nào có đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS do Bộ luật hình sự quy định. Hiện nay, Bộ luật hình sự không trực tiếp định nghĩa thế nào là “tình trạng có năng lực TNHS”, mà lại quy định tình trạng đối lập của nó – “tình trạng không có năng lực TNHS”.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, “tình trạng có năng lực TNHS” được hiểu là khả năng của một người có thể nhận thức được đầy đủ tính chất pháp lý và tính chất thực tế của hành vi phạm tội, cũng như khả năng điều khiển hành vi đó. Trong khi đó, về tuổi chịu TNHS, Điều 12 Bộ luật hình sự quy định: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm; 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Do đó, kết hợp hai tiêu chí (năng lực TNHS và độ tuổi chịu TNHS), đồng thời căn cứ vào nội dung các điều 8, 12 và 123 Bộ luật hình sự cho thấy, Khoản 1 của tội này – là tội phạm ít nghiêm trọng; Khoản 2 – tội phạm nghiêm trọng, Khoản 3 – tội phạm rất nghiêm trọng. Tương ứng như vậy – chủ thể của tội phạm này như sau – là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS (Khoản 1 và Khoản 2); là người từ đủ 14 tuổi trở lên và có năng lực TNHS (Khoản 3).
5. Hình phạt
Điều luật quy định ba khoản tương ứng với ba khung hình phạt và một khoản đề cập đến hình phạt bổ sung như sau:
– Khoản 1: là hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
– Khoản 2: hình phạt tù từ một năm đến năm năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có tổ chức: Đây là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ và mang tính bền vững, thể hiện tính chất và mức độ nguy hiểm cao cho xã hội giữa những người cùng thực hiện việc bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật; do đó, cần xử lý nghiêm khắc hơn so với trường hợp thông thường. Trên thực tế, biểu hiện của hình thức này là các hành vi của băng nhóm côn đồ, lưu manh bắt, giữ hoặc giam người để xiết nợ, đòi nợ thuê hoặc đòi hỏi các yêu sách đối với thân nhân của nạn nhân. Tuy nhiên, không được quan niệm mọi vụ bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật có nhiều người tham gia đều là phạm tội có tổ chức mà phải đáp ứng những điều kiện do pháp luật quy định.
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: là trường hợp người có chức vụ, quyền hạn và có thẩm quyền trong việc bắt, giữ hoặc giam người đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật. Trường hợp có chức vụ, quyền hạn nhưng không có thẩm quyền trong việc bắt, giam, giữ người thì xử lý theo Khoản 1 Điều luật này.
c) Đối với người thi hành công vụ: là trường hợp một người có hành vi bắt, giữ hoặc giam người đang thi hành nhiệm vụ Nhà nước giao, nhằm cản trở hoặc đe doạ không cho họ thực hiện nhiệm vụ. Bộ luật hình sự chỉ quy định “đối với người thi hành công vụ” nhưng cần hiểu rộng áp dụng cả đối với cả các trường hợp người “đã, đang hoặc sẽ” thi hành công vụ.
d) Phạm tội nhiều lần: là trường hợp một người có hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật từ hai lần trở lên và chưa bị truy cứu TNHS và người phạm tội bị đưa ra xét xử cùng một lần. Cũng cần lưu ý, nếu trước đó người phạm tội đã phạm vào một tội khác thì không xác định là phạm tội nhiều lần.
đ) Đối với nhiều người: Đây là trường hợp một người phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật đối với từ hai người trở lên.
– Khoản 3: là hình phạt tù từ ba năm đến mười năm khi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng.
Phạm tội gây “hậu quả nghiêm trọng” được hiểu là gây thiệt hại về tinh thần, vật chất cho người bị hại hoặc gia đình họ, ảnh hưởng xấu về mặt xã hội, như: người bị bắt, giữ, giam trái pháp luật uất ức mà tự sát, hoặc do bị giam, giữ lâu ngày mà mắc bệnh nặng, làm gia đình ly tán… Còn gây thiệt hại về vật chất như: người bị giam, giữ lâu ngày là lao động chính nuôi sống gia đình, do bị giam, giữ làm cho kinh tế gia đình họ lâm vào tình trạng đặc biệt khó khăn; hay về mặt xã hội – làm cho dư luận quần chúng nhân dân lên án, căm phẫn, ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước, đến cán bộ bảo vệ pháp luật;…
– Khoản 4: quy định hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một đến năm năm đối với người phạm tội sau khi đã chấp hành xong hình phạt chính.
5. Mức xử phạt hành vi bắt, giữ người trái pháp luật
Tóm tắt câu hỏi:
Ngày 12/10/2014 anh Bình đi 1 xe máy chở Thực đến Bắc Từ Liêm, Hà Nội thì va chạm giao thông với nhóm của Phước, Dương, Hưng, Phương, Đô. Xe máy của Bình va chạm với xe của Hưng chở Phương khiến xe đi sau của Phước cũng bị đâm vào xe của Hưng. Nhóm của Hưng yêu cầu Bình và Thực phải chịu trách nhiệm về tai nạn nên Bình bỏ đi. Hưng yêu cầu Thực chịu trách nhiệm. Do biết Bình có lỗi do đi ngược chiều và cũng không muốn nhờ cơ quan chức năng giải quyết nên Hưng yêu cầu Thực đi theo về nhà. Thực có gọi điện cho Bình quay lại giải quyết, Bình đồng ý. Hưng yêu cầu Thực gọi điện cho người nhà đến nhưng người nhà anh Bình,Thực bận không đến ngay được hẹn hôm sau. Lúc này ông Thạch bố của Đô hỏi Thực muốn giải quyết như thế nào, họ nói chờ mẹ Bình đến, ông Thạch nói Bình, Thực là người lạ muốn ở lại thì phải viết giấy cam kết tự nguyện để không ảnh hưởng đến trật tự, Bình và Thực đồng ý. Ngày 13/10 Hưng bảo Thực gọi cho anh Đông( chủ xưởng của Thực) anh Đông hẹn trưa đến không phải gọi cho mẹ Bình nữa. Đến 12h trưa không ai đến,sau đó Hưng đem xe máy đi sửa ở công ty YAMAHA được báo giá sửa hết 14t riệu. Khi quay lại đợi người nhà đến thì Thực đã bỏ trốn. Trong lúc tức giận Phước đã véo tai Bình và chửi, Hưng yêu cầu Bình gọi điện cho mẹ xuống nhưng lúc gọi Bình nói tiếng dân tộc nên Dương và Hưng đánh Bình. Sau đó hỏi chỗ làm của Thực để đi tìm nhưng không được. Sau đó Hưng chở Bình ra quán Game không giữ ở nhà nữa mà giữ ở quán Game. Lúc này Bình gọi điện cho a Đông nhưng anh nói không giúp Bình nên Bình lại gọi điện cho mẹ. 21 giờ cùng ngày mẹ Bình xuống Hà Nội cùng anh Hậu rồi hẹn gặp nhóm Phước ở Cầu Diễn. Sau đó cả mẹ Bình, anh Hậu và nhóm Phước về nhà Phước. Sau khi nói chuyện về vụ tai nạn giao thông yêu cầu bà hỗ trợ tiền sửa xe. Do không có tiền nên bà xin được để lại chứng minh thư nhân dân và đăng kí xe rồi đưa Bình về vay tiền. Sau đó bà gọi điện nhờ anh Đông giúp, ông Thạch bảo bà nghỉ lại nhà Phước còn để Bình và Hậu về nhà trọ. Sau khi rời khỏi nhà Phước đến sáng 14/10 anh Bình đến trình báo sự việc ở Công An huyện Hoài Đức và đi khám thương tích.Sau khi điều tra Công an quyết định khởi tố bị can nhóm Phước, Hưng, Dương… tội giữ người trái phép phạm vào điều 123 Bộ luật hình sự.(Bản cam kết tự nguyện ở lại đã bị công an thu giữ ngay sau đó). Vậy xin hỏi Luật sư liệu có cách biện hộ vụ án cho nhóm Phước, Hưng, Dương … trắng án không ạ? Nên xử lí vụ việc trên như thế nào là hợp lý ạ ? Vì kết luận vụ án là sau khi Thực bỏ trốn Bình đã bị ép buộc ở lại nhà Phước để giải quyết vụ tai nạn giao thông trái với ý của Bình. Xin chân thành cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Hành vi “giữ” theo Từ điển tiếng việt được hiểu là “làm cho ở nguyên một chỗ, không có sự xê dịch; làm cho ở trạng thái ổn định, không có sự thay đổi; trông coi, bảo quản; đảm nhận”. Ở đây hành vi giữ người được hiểu là sự giới hạn về không gian khiến cho người bị hại không được tự do về thân thể hoặc hoạt động, sự tước đoạt sự tự do này là trái ý muốn của nạn nhân. Tội giữ người trái pháp luật xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân.
Trong trường hợp này, hành vi vi phạm của Bình và Thực không thuộc tội quả tang theo Điều 82 Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Do đó, Phước, Dương, Hưng, Phương không có quyền bắt giữ Bình và Thực. Nếu phát hiện hành vi vi phạm, các đối tượng đó có quyền tố cáo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết.
Điều 123 “Bộ luật hình sự 2015” sửa đổi, bổ sung 2009 quy định như sau:
Điều 123. Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
A) Có tổ chức;
B) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
C) Đối với người thi hành công vụ;
D) Phạm tội nhiều lần;
Đ) Đối với nhiều người.
3. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.
Áp dụng trong trường hợp này ta thấy:
– Ngày 12/10/2014 sau khi gây ra tai nạn, anh Hưng đã yêu cầu anh Bình và anh Thực theo về nhà anh Phước, sau đó Bình và Thực đã viết giấy cam kết tự nguyện về việc ở lại, như vậy việc ở lại là tự nguyện, do vậy lúc này hành vi của các anh Phước, Dương, Hưng, Phương, Đô sẽ không bị coi là bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật .
– Ngày 13/10/2014, anh Thực rời khỏi nhà anh Phước, lúc này anh Bình đã bị anh Hưng dùng vũ lực do tức giận việc anh Thực bỏ trốn. Điều này thể hiện ý chí của anh Hưng đó là muốn ngăn cản sự tự do di chuyển của mình đối với anh Bình và anh Thực. Cùng với đó anh Bình sau khi bị đánh sau khi anh thực bỏ trốn đã bị nhóm anh Hưng giữ lại và địa điểm thay đổi từ nhà sang quán game. Thời gian mà Bình bị giữ lại sau thời điểm bị đánh là khoảng thời gian từ trưa ngày 13/10 đến 21 giờ cùng ngày, khoảng thời gian này có thể thấy là anh Bình bị giữ lại trái với ý muốn của bản thân.
Như vậy hành vi của nhóm anh Hưng xét theo cấu thành tội phạm của tội giữ người trái phép theo Điều 123 Bộ luật hình sự là đã đủ cấu thành của tội này vì vậy Công an quyết định khởi tố bị can nhóm Phước, Hưng, Dương… tội giữ người trái phép phạm vào Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật.
Do vậy hành vi của nhóm anh Hưng, Phước, Dương, Đô, Phương sẽ bị xét xử theo pháp luật.
6. Bắt giữ người trái phép xử lý ra sao?
Tôi xin phép hỏi luật sư: thứ 7 lúc 16:00h, em trai tôi và một người bạn nó đi chơi với nhau bằng hai phương tiện là hai xe máy ở gần nhà tại Hà Nội và bị công an tỉnh Phú Thọ bỗng dưng bắt không thông báo gì. Cả hai đứa bị đưa lên trại giam Phủ Đức, thành phố Việt Trì, Phú Thọ trong khi bắt họ kiểm tra người và phương tiện không có ma túy và có lệnh khám nhà họ bảo nghi án ma túy và khám nhà cả 2 đứa đều không có ma túy và tạm giam bạn em trai tôi đến 16h chủ nhật. Bạn em tôi lên và bị công an dọa có 2g ma túy đá thế là sợ quá bảo em nó sai các chú giúp em nó, họ nói là 40 đến 50 triệu sau đó bỏ ra 40 triệu cho con về. Khi về tôi gặp trực tiếp nó, tôi hỏi nó bảo bọn em không có gì cả và biết được một tin là đứa mới quen của 2 thằng bị bắt tội danh buôn bán ma túy và khai không đúng sự thật về em tôi và bạn nó, nói là chúng nó buôn bán ma túy mà không có vật chứng gì chứng minh. Hôm nay lúc này là 00h46′ thứ 5 em tôi vẫn chưa được thả, họ bắt lấy xe máy trước mà em tôi mượn của người yêu nó tôi rất sợ khi lấy xe xong bọn họ giở trò?
Luật sư tư vấn:
Điều 79 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 quy định Các biện pháp và căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn như sau:
“Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.”
Việc bắt người gồm các trường hợp sau:
– Bắt người trong trường hợp khẩn cấp: áp dụng trong trường hợp khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
Luật sư tư vấn về bắt giữ người trái phép qua tổng đài: 1900.6568
– Bắt người phạm tội quả tang: áp dụng trong trường hợp đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.
– Bắt người đang bị truy nã: áp dụng đối với đối tượng đang bị truy nã.
– Bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
– Bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
Theo thông tin bạn cung cấp, em trai bạn và một người bạn của em trai bạn có đi chơi bằng xe máy, sau đó bị công an Phú Thọ bắt và tạm giam, tuy nhiên không có bằng chứng, chứng cứ chứng minh em bạn có hành vi phạm tội; không thuộc trường hợp bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ thì việc bắt người của cơ quan công an là không có căn cứ, vi phạm thủ tục tố tụng.
Để đảm bảo quyền lợi cho em của bạn, bạn làm đơn kiến nghị gửi tới công an tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xem xét về việc bắt giữ người trái pháp luật.