Sự cẩn trọng chính xác dựa trên những căn cứ pháp luật hiện hành trong việc đưa ra các phán quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt động áp dụng pháp luật. Chính vì vậy, cần có các biện pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật. Hiệu quả của pháp luật là gì? Biện pháp nào nâng cao hiệu quả?
Mục lục bài viết
1. Hiệu quả của pháp luật là gì?
Nhà nước xây dựng và ban hành pháp luật nhằm tác động vào và điều chỉnh các quan hệ xã hội. Sự tác động đó chỉ thực sự có hiệu quả cao khi tất cả các nguyên tắc , quy định của pháp luật được thực hiện một cách đầy đủ chính xác và triệt để. Tuy nhiên, nếu nhà nước chỉ trông chờ vào các hình thức tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật thì sẽ có rất nhiều quy phạm pháp luật không được thực hiện. Nguyên nhân có thể là do các chủ thể không muốn thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nếu thiếu sự tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đặc biệt, khi các hành vi vi phạm phạm pháp luật, tội phạm xảy ra, xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, của các nhóm xã hội và của công dân, đòi hỏi có các chế tài , biện pháp sử lí thích đáng từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây là lúc cần đến biện pháp thực hiện pháp luật đặc biệt hơn – áp dụng pháp luật.
Như vậy áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân tổ chức cụ thể.
Hiệu quả của pháp luật là kết quả cụ thể của sự tác động pháp luật đến các quan hệ xã hội so với yêu cầu đặt ra khi ban hành pháp luật.
2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật:
2.1. Tăng cường giáo dục pháp luật, bồi dưỡng kĩ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước:
Hoạt động áp dụng pháp luật là lĩnh vực hoạt động đặc thù chỉ do cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền thực hiện. Dù là cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền thì cũng đều phải thông qua những cá nhân con người cụ thể – đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có chức năng, thẩm quyền áp dụng pháp luật. Chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của đội ngũ này phụ thuộc phần lớn vào trình độ tri thức, hiểu biết pháp luật và kĩ năng nghiệp vụ của họ. Trong số nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế , khiếm khuyết trong hoạt động áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay thì sự thiếu tri thức pháp luật và yếu về kĩ năng nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật vẫn là nguyên nhân chủ yếu. Đảng ta đã nhận định “ năng lực pháp luật thể chế , quản lí, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu… Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức đưa đạt được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra ; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân . Cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác, án tồn động, án bị hủy, bị cải sửa còn nhiều. Chính vì vậy, việc tăng cường giáo dục pháp luật, bồi dưỡng kĩ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật là một biện pháp hết sức quan trọng, phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm theo từng giai đoạn cụ thể.
Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng là hoạt động có định hướng , có tổ chức, thông qua các phương pháp đặc thù và bằng các hình thức chủ yếu là đào tạo , tập huấn, bồi dưỡng pháp luật, hướng tới cung cấp đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật những tri thức hiểu biết về các vấn đề pháp luật nói chung, những pháp luật cụ thể liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật nói riêng, trang bị cho họ những kĩ năng áp dụng pháp luật, nhằm làm hình thành ở đội ngũ này tri thức pháp luật, tình cảm pháp chế và hành vi áp dụng pháp luật phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Hoạt động giáo dục pháp luật luôn là thể thống nhất hữu cơ của các thành tố: mục đích, muc tiêu, chủ thể đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục pháp luật. Hoạt động giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật là hoạt động dành riêng cho một nhóm đối tượng cụ thể nên nó có những nét đặc thù nhất định, do đó , ngoài sự tuân thủ các yêu cầu chung của quá trình giáo dục pháp luật nói chung, việc tăng cường giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, côn chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng đòi hỏi phải:
– Về mục đích, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải hướng tới trang bị những kiến thức pháp luật chuyên sâu về những lĩnh vực pháp luật chuyên ngành có liên quan, phù hợp với chức danh, thẩm quyền áp dụng pháp luật của từng người, củng cố các kĩ năng áp dụng pháp luật cho họ.
– Về mục tiêu, mục tiêu là sự cụ thể hóa của mục đích giáo dục pháp luật. Mục tiêu giáo dục pháp luật được thể hiện trên ba phương diện, mục tiêu về nhận thức, mục tiêu về kĩ năng, mục tiêu về tình cảm. Mục tiêu về nhận thức là thường xuyên củng cố, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật chuyên ngành cho đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Mục tiêu về tình cảm là làm hình thành củng cố niềm tin đối với pháp luật, đặc biệt là niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật . Mục tiêu về kĩ năng là thường xuyên trau dồi, nâng cao kĩ năng nghiệp vụ áp dụng pháp luật.
– Về chủ thể, chủ thể giáo dục pháp luật cho cán bộ công chức nhà nước là những cán bộ, giảng viên chuyên gia pháp lí có trình độ cao về lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, có kinh nghiệm thực tiễn, có kĩ năng nghiệp vụ sư phạm giỏi.
– Về đối tượng, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ , công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật là giáo dục pháp luật cho đối tượng đặc biệt – những người đương chức đương quyền, nhất là cán bộ, công chức lãnh đạo , những người quen chỉ đạo người khác, tự tin vào chuyên môn và kinh nghiệm của mình, nên thái độ của họ đối với việc giáo dục pháp luật là không cầu thị, vì thế để đạt được hiệu quả giáo dục tốt cần chú ý tới đặc điểm này.
– Về nội dung, ngoài những thông tin kiến thức pháp luật chung, nội dung giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật cần tập trung vào vấn đề pháp luật chuyên ngành liên quan tới chuyên môn của từng đối tượng cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật. ngoài ra, chủ thể giáo dục pháp luật cũng cần đặc biệt chú ý trang bị tri thức về kĩ năng nghiệp vụ áp dụng pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật.
– Về phương pháp, phải thực sự sinh động, hấp dẫn lôi cuốn đối tượng vào nội dung bằng các phương pháp phát vấn , đặt câu hỏi, nêu những tình huống , sự kiện pháp lí cụ thể có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật nhằm tạo sự tranh luận, thảo luận sôi nổi. Phương pháp giáo dục pháp giáo dục pháp luật cũng phải hướng tới rèn luyện cho đội ngũ cán bộ công chức có thẩm quyền áp dụng pháp luật về kĩ năng thực hành áp dụng pháp luật trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
– Về hình thức, tập trung vào các hình thức cơ bản là: đào tạo pháp luật tại cơ sở giáo dục – đào tạo chuyên ngành luật. Tập huấn chuyên đề pháp luật, hướng tới trang bị kiến thức pháp luật về những văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành, sửa đổi, bổ sung. Bồi dưỡng kiến thức pháp luật hướng tới bổ sung cung cấp lại, trang bị mới, cập nhật cho đội ngũ cán bộ công chức này những kiến thức pháp luật cụ thể, thiết thực trong hoạt động áp dụng pháp luật.
2.2. Nâng cao ý thức pháp luật nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước:
Ý thức pháp luật nghề nghiệp là ý thức pháp luật của các luật gia, của các nhà chức trách, của các cán bộ công chức mà nghề nghiệp của họ có liên quan đến việc hoạch định chính sách pháp luật, nghiên cứu , xây dụng và tổ chức thực hiện , áp dụng pháp luật. Ý thức pháp luật nghề nghiệp là sự kết hợp hài hòa của những yếu tố thuộc hệ tư tưởng pháp luật và tâm lí pháp luật. Nó không chỉ biểu hiện ở trình độ hiểu biết cao về pháp luật mà còn phản ánh trình độ nghiệp vụ, kĩ năng sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật vào giải quyết công việc thực tiễn của mỗi người. Có thể coi “ ý thức pháp luật nghề nghiệp là cầu nối giữa ý thức pháp luật lí luận và ý thức pháp luật thông thường”.
Ý thức pháp luật là nhân tố ci phối, điều chỉnh hành vi pháp luật của con người. Đối với đa số các tầng lớp nhân dân thì có thể bằng long với việc giáo dục pháp luật, được trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật nhằm hình thành củng cố hoặc nâng cao ý thức pháp luật thông thường. Tuy nhiên đối với đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật thì ý thức pháp luật của họ không chỉ dừng lại ở ý thức pháp luật thông thường mà phải được nâng lên ở cấp độ cao hơn – ý thức pháp luật nghề nghiệp.
Để đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp luật luôn chính xác, khách quan, công bằng thì việc nâng cao ý thức pháp luật nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật là biện pháp không thể thiếu. Ý thức pháp luật nghề nghiệp có vai trò quan trọng đối với toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật. Trước hết, ý thức pháp luật nghề nghiệp là nền tảng tri thức giúp đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật có thể phân tích đánh giá đầy đủ, khách quan, chính xác tất cả những tình tiết , điều kiện hoàn cảnh có liên quan đến sự việc, sự kiện pháp lí xảy ra trong thực tế , trên cơ sở đó lựa chọn đúng những quy phạm pháp luật phù hợp với sự việc sự kiện pháp lí đang được xem xét. Các kĩ năng phân tích, đánh giá lựa chọn có ý nghĩa quyết định trong hoạt động này. Tiếp đến, ý thức pháp luật nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật là cơ sở cho họ ra quyết định hoặc ban hành văn bản áp dụng pháp luật có đủ căn cứ pháp lí, đúng thẩm quyền, đúng tên gọi, đúng trình tự, thủ tục theo luật định. Cuối cùng việc tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật cũng đòi hỏi cán bộ công chức có thẩm quyền áp dụng pháp luật cũng phải có ý thức pháp luật nghề nghiệp, đặc biệt là tình cảm pháp chế.
Nhưng để đạt tới ý thức pháp luật nghề nghiệp ở trình độ cao, đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dung pháp luật phải nỗ lực và phấn đấu rất nhiều. Một mặt, ý thức pháp luật nghề nghiệp biểu hiện trình độ hiểu biết cao về pháp luật nên các cán bộ, công chức nhà nước tham gia hoạt động áp dụng pháp luật cần phải được đào tạo chính quy, bài bản, được trang bị tri thức, hiểu biết pháp luật ở trình độ cử nhân hoặc trình độ cao hơn. Mặt khác, ý thức pháp luật nghề nghiệp phản ánh trình độ nghiệp vụ, kĩ năng sử dụng và áp dụng pháp luật vào việc giải quyết các công việc của thực tiễn đời sống xã hội, do đó, mỗi cán bộ, công chức thuộc cơ quan hành chính, tư pháp cần thường xuyên tích cực trau dồi năng lực chuyên môn, chủ động nâng cao kiến thức nghiệp vụ, tự học hỏi tìm ra những biện pháp tốt nhất để áp dụng pháp luật một cách có hiệu quả, luôn khẳng định được tính công bằng, nghiêm minh của hoạt động áp dụng pháp luật.
2.3. Thông báo công khai kết quả áp dụng pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng:
Sự nỗ lực phấn đấu của các cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền thông qua hoạt động áp dụng pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước được thể hiện ở kết quả của hoạt động áp dụng pháp luật – cũng là thước đo đánh giá tính hiệu lực và hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật. Yêu cầu tiếp theo là cần
Trong tiến trình dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội ở nước ta hiện nay, việc thông báo công khai kết quả áp dụng pháp luật là một việc không thể thiếu được. Có công khai thì mới có dân chủ, vì công khai là điều kiện để thực hiện quyền làm chủ của người dân. Bản chất của nhà nước ta là nhà nước dân chủ, nên công khai là một yêu cầu tất yếu, là một biểu hiện quan trọng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Yếu tố công khai trong hoạt động áp dụng pháp luật đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật pháp luật phải thông báo đầy đủ, chính xác, cụ thể và rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân về các vụ việc vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa, các hành vi phạm pháp, phạm tội cũng như kết quả áp dụng pháp luật mà các cơ quan này đã thực hiện đối với các loại vi phạm đó. Các phương tiện thông tin đại chúng có vai trò hết sức quan trọng trong vấn đề này nhờ vào tính cập nhật, sự phổ biến rộng rãi, nhanh chóng thông tin trong xã hội.
Một trong những nhiệm vụ của các phương tiện thông tin đại chúng là phát hiện và phê phán các thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội, hiện tượng tiêu cực, các vụ việc vi phạm pháp luật. Các thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội, hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, tha hóa về đạo đức, các vụ việc phạm pháp, phạm tội nghiêm trọng đã và đang là nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ xã hội, hủy hoại nhân phẩm con người, là suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Những vấn nạn đó và đang gây hoang mang, bức sức trong dư luận xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào hiệu lực của bộ máy nhà nước. “ Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng , lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện tinh vi, phức tạp chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội”’. Quán triệt phương châm “ xây đi đôi với chống” , các phương tiện thông tin đại chúng luôn đi tiên phong trong công việc phát hiện, nêu lên các vụ việc tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, lãng phí, cửa quyền.
Bên cạnh đó, các phương tiện thông tin đại chúng gần đây đã phát hiện, phản ánh và phê phán những hiện tượng đáng báo động trong đạo đức lối sống của một số đối tượng, nhất là trong giới trẻ, như sử dụng trái phép chất ma túy, nạn mại dâm, cờ bạc, lối sống xa hoa hưởng thụ, đề cao sức mạnh của đồng tiền. Sự phát hiện và phê phán của báo chí đã giúp các cơ quan chức năng, gia đình, xã hội nhận thức rõ hơn tác hại và hậu quả khôn lường của các tệ nạn, từ đó, đưa ra các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa có hiệu quả.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, cần thông báo công khai kết quả đấu tranh với các hành vi phạm pháp, phạm tội, kết quả hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan hữu trách. Việc công khai, minh bạch thông tin trên các thông tin đại chúng có tác động hết sức quan trọng.
Một là, việc công khai, minh bạch thông tin có tác dụng trấn an dư luận xã hội, dẹp tan mọi băn khoăn, hoài nghi, thắc mắc trong dư luận quần chúng nhân dân về tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật và về hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Nếu ai đó còn hoài nghi về việc các hành vi phạm pháp, phạm tội được bao che, dung túng bởi các cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật hì việc thông báo công khai về kết quả xử lí các sự việc, sự kiện pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng sẽ giúp họ giải tỏa sự hoài nghi đó, tránh được sự lan truyền những tin đồn thất thiệt.
Hai là, việc thông báo công khai thông tin về kết quả áp dụng pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng có tác dụng khích lệ, cổ vũ các chủ thể pháp luật tích cực hơn nữa trong việc phát hiện các hành vi phạm pháp, phạm tội vì nó mang lại những kết quả cụ thể thiết thực. Nó cũng có tác dụng củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào hiệu lực của bộ máy nhà nước và hiệu quả của các cơ quan thực thi, bảo vệ pháp luật, góp phần gia tăng niềm tin của nhân dân đối với pháp luật nói chung.
3. Thực tiễn áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay:
Áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước, các công chức nhà nước có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật đòi hỏi có tính sáng tạo cao. Người thực hiên áp dụng pháp luật đòi hỏi phải có kĩ năng nghiệp vụ cao. Vì thế mà giáo dục pháp luật, bồi dưỡng kĩ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ hết sức quan trọng để thực hiện tốt áp dụng pháp luật. Ví dụ, cũng là một phiên tòa xét xử về cùng một loại án, một tội danh, đối tượng phạm tội, hoàn cảnh phạm tội gần giống nhau nhưng kết quả xử không phải lúc nào cũng giống nhau, mà thậm chí còn trái ngược nhau.
Dưới sự chủ tọa của thẩm phán A, phiên tòa diễn ra hết sức trang nghiêm trật tự. Nội dung thẩm vấn công khai trước tòa đã làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án và bản án được thông qua trước sự tâm phục khẩu phục của bị cáo và những người chứng kiến cũng như dư luận. Tác dụng của bản án mang tính giáo dục sâu sắc. Nhưng với thẩm phán B thì phiên tòa diễn ra lộn xộn, các tình tiết vụ án không được soi xét kĩ lưỡng gây mất lòng tin của những người chứng kiến và bản án thông qua tại phiên tòa chưa được đạt lí, thấu tình dẫn đến kháng cáo kháng nghị.
Như vậy, vấn đề ở đây không phải do lỗi của bản thân pháp luật mà là do kĩ năng áp dụng pháp luật của hai thẩm phán khác nhau, người đạt được trình độ cao về hiểu biết pháp luật, người tỏ ra yếu kém. Đây là vấn đề không phải hiếm trong thực tế áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay.
Áp dụng pháp luật trong tất cả các lĩnh vực: quản lí hành chính, quản trị kinh doanh, sản xuất, dịch vụ… đều đòi hỏi phải đạt đến trình độ cao. Cũng là giải phóng mặt bằng để xây dựng các dự án quốc gia nhưng trong trường hợp nỳ thì được nhân dân ủng hộ, trường hợp khác lại bị dân chúng phản đối. Rõ ràng hai hội đồng giải phóng mặt bằng có trình độ áp dụng pháp luật khác nhau. Gần đây, tại thủ đô Hà Nội xảy ra một số trường hợp lái xe chống lại một cách quyết liệt việc yêu cầu dừng xe của cảnh sát giao thông. Lẽ dĩ nhiên lái xe vi phạm luật giao thông thì phải xử lí nhưng cách xử lí của một số cảnh sát giao thông tỏ ra vụng về, không thuyết phục và thậm chí chưa đúng luật.
Vì thế, nâng cao giáo dục pháp luật, bồi dưỡng kĩ năng nghiệp vụ cho cán bộ công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật là việc hết sức quan trọng để việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn diễn ra một cách chính xác khoa học. Và việc thông báo công khai kết quả áp dụng pháp luật cũng hết sức quan trọng đề mỗi người dân biết và chấp hành tốt hơn nhưng quy định của pháp luật.
Ví dụ như
Ví dụ, Thông tư số 68/2009/TT-BNNPTNT ngày 23.10.2009 Hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 40/2009/NĐ-CP ngày 24.4.2009 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y, hướng dẫn về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này là một năm, kể từ ngày hành vi vi phạm hành chính được phát hiện và người có thẩm quyền lập
Vì, hai văn bản này quy định thời hiệu thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện. Ví dụ, một cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y ngày 1.1.2009, nhưng đến ngày 1.1.2010 cơ quan có thẩm quyền mới phát hiện và lập biên bản. Theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định 40 thì ngày để tính thời hiệu 1 năm là ngày 1.1.2009. Nhưng theo Thông tư 68 thì ngày 1.1.2010 mới là ngày tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Điều này hoàn toàn trái quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm .Ý thức thực hiện pháp luật quản lý chất nguy hại của người dân còn kém. Với những việc như thế này phương tiện thông tin đai chúng rất có ích để nhân dân biết và thực hiện tốt hơn.
Như vậy, với thực tiễn áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay còn nhiều những bất cập nhưng cũng đang ngày càng hoàn thiên hơn với những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Như vậy, với thực tế ở nước ta hiện nay cho thấy, những sự việc sai phạm gây xôn xao dư luận xã hội, những hành vi khiếu kiện đông người, vượt cấp kéo dài có nguyên nhân từ những áp dụng pháp luật sai về trình tự, thủ tục thẩm quyền. Vì thế để giảm thiểu những phán quyết sai sót, hạn chế những tác động tiêu cực của chúng đối với xã hội và cá nhân thì nâng cao trình độ chuyên môn, kĩ năng nghiệp vụ, ý thức pháp luật nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ công chức có thẩm quyền áp dụng pháp luật và tăng cường công tác thanh tra kiểm tra, giám sát quá trình ban hành triển khai thực hiện văn bản áp dụng pháp luật trong thực tế là những giải pháp hết sức quan trọng và cần thiết.