Bồi thường khi làm hư hỏng hàng hóa trong lúc vận chuyển? Nguyên tắc bồi thường thiệt hại? Quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại?
Hiện nay, đối với hợp đồng được ký kết theo quy định của pháp luật dân sự thì các bên phải có trách nhiệm bồi thường đối với bên còn lại trong hợp đồng giao kết khi để sảy ra lỗi, vi phạm hợp đồng. Đối với việc làm hư hỏng hàng hóa trong lúc vận chuyển thì một bên trong hợp đồng giao kết mà ở đây là bên vận chuyển phải thực hiện bồi thường cho bên còn lại. Vậy bồi thường khi làm hư hỏng hàng hóa trong lúc vận chuyển được quy định như thế nào? Hãy cùng Luật Dương Gia tìm hiểu về nội dung này trong bài viết chi tiết dưới đây:
Luật sư
Cơ sở pháp lý:
1. Bồi thường khi làm hư hỏng hàng hóa trong lúc vận chuyển
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi có thuê một công ty vận chuyển một bức tượng từ Thanh Hóa ra Hà Nội, nhưng trên đường đi thì có va chạm và một phần bức tượng bị vỡ. Tôi yêu cầu bên công ty đó bồi thường toàn bộ giá trị hàng của tôi nhưng bên đó chỉ bồi thường một phần. Xin hỏi trong trường hợp của tôi thì có được bồi thường toàn bộ không?
Luật sư tư vấn:
Theo quy định tại Điều 539 Bộ luật dân sự 2015 về nghĩa vụ của bên vận chuyển như sau:
“Điều 539. Nghĩa vụ của bên vận chuyển
Bên vận chuyển có các nghĩa vụ sau đây:
1. Bảo đảm vận chuyển tài sản đầy đủ, an toàn đến địa điểm đã định, theo đúng thời hạn;
2. Trả tài sản cho người có quyền nhận;
3. Chịu chi phí liên quan đến việc chuyên chở tài sản, trừ trường hợp có thoả thuận khác;
4. Mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật;
5. Bồi thường thiệt hại cho bên thuê vận chuyển trong trường hợp bên vận chuyển để mất mát, hư hỏng tài sản do lỗi của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Giữa bạn và công ty vận chuyển đã giao kết hợp đồng vận chuyển tài sản. Đó là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên vận chuyển có nghĩa vụ chuyển tài sản đến địa điểm đã định theo thỏa thuận và giao tài sản đó cho người có quyền nhận, còn bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ trả cước phí vận chuyển.
Theo quy định trên, bạn cần xác định lỗi của bên vận chuyển đối với việc hư hỏng tài sản mà bạn đã thuê vận chuyển. Từ đó, có căn cứ yêu cầu bên vận chuyển bồi thường thiệt hại cho bạn.
Việc bồi thường thiệt hại phải được thực hiện theo nguyên tắc được quy định tại Điều 605 Bộ luật dân sự:
“Điều 605. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.”
Như vậy, đối với yêu cầu của bạn về việc bên công ty đó bồi thường toàn bộ giá trị hàng của bạn và đối chiếu với điều luật được nêu ở trên thì bên công ty vẫn chuyển cần bồi thường toàn bộ giá trị của sản phẩm. Những trong trường hợp bức tượng có thể đucợ khôi phục nguyên vẹn thì có thể yêu cầu bên công ty vận chuyển bồi thường một phần theo yêu cầu của bạn vị va chạm này là lỗi vô ý.
2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Theo quy định của Điều 585 Bộ luật dân sự 2015 thì bồi thường thiệt hại được thực hiện dựa trên các nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định như sau:
Một là, Thiệt hại trên thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể tự thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ các trường hợp pháp luật có quy định khác về việc bồi thường thiệt hại.
Hai là, Người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình. Ngày nay các nguyên tắc bồi thường đa phần chỉ áp dụng được đối với trường hợp thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, bởi vì bằng cách này hay cách khác, giá trị của tài sản bị xâm phạm đều co thể được xác định cụ thể bằng các đơn vị đo lường trên thực tế.
Bên cạnh đó, còn đối với các trường hợp đối tượng bị xâm phạm là các giá trị nhân thân ví dụ như sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín thì việc xác định thiệt hại trên thực tế sẽ rất khó, bởi vì các giá trị nhân thân và tiền tệ không phải là các đại lượng ngang giá nên không thể dùng tiền để đo giá trị nhân thân bị tổn hại. Bởi vì vậy, khi các giá trị nhân thân bị các chủ thể hay các tổ chức xâm phạm, mức độ bồi thường thiệt hại chỉ là tương đối chứ không thể tuyệt đối ví dụ như trường hợp xâm phạm tài sản.
Bốn là, Cần lưu ý rằng khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu
Năm là, Các bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
Đối với nguyên tắc bồi thường thiệt hại kịp thời được hiểu là ngay khi thiệt hại được xảy ra, người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải nhanh chóng khắc phục tổn thất mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Việc khắc phục này cần phải được thực hiện trước khi tranh chấp về bồi thường thiệt hại được Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận về mọi vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ đó. Do đó, trên cơ sở quy định về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về tất cả các vấn đề liên quan đến vụ việc cụ thể như mức bồi thường, hình thức bồi thường, phương thức bồi thường. Về nội dung quyền và nghĩa vụ, bên cạnh các quy đinh về việc thỏa thuận này có thể diễn ra trước, trong hoặc sau khi tranh chấp về bồi thường thiệt hại đã được Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận trước đó, các vấn đề pháp lý có liên quan đến bồi thường thiệt hại sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật.
3. Quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
3.1. Phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trên thực tế, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm các loại trách nhiệm sau đây, cụ thể là: trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần. Trong đó:
Thứ nhất, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất được nhắc đến là một trong hai loại trách nhiệm cụ thể là trách nhiệm mà các chủ thể gây ra thiệt hại bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm những tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần được biết đến khi các chủ thể gây ra thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai thì còn phải thực hiện việc bồi thường một khoản tiền để nhằm mục đích bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.
3.2. Cơ sở bồi thường thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ được đặt ra khi các chủ thể có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự và đã gây ra thiệt hại cho các chủ thể khác trên thực tế. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi người đó có lỗi, do vậy việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ phải dựa trên các cơ sở cụ thể sau đây:
Thứ nhất: Các chủ thể có hành vi trái pháp luật theo như quy định của pháp luật hiện hành thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các chủ thể chỉ được phát sinh khi và chỉ khi có hành vi trái pháp luật và trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ áp dụng với người có hành vi đó. Tuy nhiên, trên thực tế, trong một số trường hợp không thực hiện nghĩa vụ không bị coi là trái pháp luật và người không thực hiện nghĩa vụ không phải bồi thường thiệt hại khi nghĩa vụ dân sự không thực hiện được hoàn toàn do lỗi của người có quyền thì người không thực hiện nghĩa vụ không phải bồi thường thiệt hại hoặc không thực hiện được do sự kiện bất khả kháng thì người không thực hiện nghĩa vụ không phải bồi thường thiệt hại.
Thứ hai: Có thiệt hại xảy ra trong thực tế, thiệt hại xảy ra do vi phạm nghĩa vụ dân sự bao gồm các thiệt hại về những tài sản bị mất mát hoặc bị hủy hoại hoàn toàn hay những hư hỏng, giảm sút giá trị về tài sản. Ngoài ra còn có những chi phí mà người bị vi phạm phải bỏ ra để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục những hậu quả do người vi phạm nghĩa vụ gây ra, những tổn thất do thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút.
Thứ ba: Có mối quan hệ giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại xảy ra. theo đó thì hành vi vi phạm được xác định dưới góc độ pháp lý là nguyên nhân và thiệt hại xảy ra là kết quả, chỉ khi nào thiệt hại xảy ra là hậu quả tất yếu của hành vi vi phạm pháp luật thì người vi phạm mới phải bồi thường thiệt hại. bên cạnh đó, nếu có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến thiệt hại thì việc xác định trách nhiệm bồi thường thuộc về ai cần xem xét hành vi vi phạm của họ có quan hệ như thế nào đối với thiệt hại xảy ra để tránh sai lầm khi áp dụng các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thứ tư: Do lỗi của người vi phạm nghĩa vụ dân sự mà lỗi ở đây được hiểu là điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất làm căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. tuy nhiên cũng có quy định đối với người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi do cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ các trường hợp đã có thỏa thuận trước đó hoặc pháp luật quy định khác.